Tổng lượng khí thải CO2 thường được tính toán thông qua các dữ liệu như có bao nhiêu người, mức tiêu thụ năng lượng, hiệu quả sử dụng năng lượng và mức thải CO2 của năng lượng.
Lượng khí thải hàng không tăng mạnh trong hơn 50 năm qua cùng với nhau cầu sử dụng vận tải của con người ngày càng lớn.
Ngành hàng không thải ra 1 tỷ tấn CO2
Hiệu quả đã được cải thiện, nhưng nhu cầu toàn cầu ngày càng tăng dẫn đến lượng khí thải cao hơn. Để tính toán lượng khí thải carbon từ hàng không cần ba số liệu:
Một là,nhu cầu hàng không, bao nhiêu km hành khách và hàng hóa.
Hai là,hiệu quả năng lượng, bao nhiêu năng lượng được sử dụng trên mỗi km.
Ba là,cường độ carbon: Loại nhiên liệu nào đang được sử dụng, cho chúng ta biết lượng carbon thải ra trên một đơn vị năng lượng.
Nhân các số liệu này với nhau và chúng ta thu được lượng khí thải CO2.
Từ năm 1990 đến năm 2019, nhu cầu vận chuyển hàng hóa và hành khách hàng không đã tăng gần gấp bốn lần. Tính đến năm 2019, số hành khách của ngành hàng không di chuyển hơn 8 nghìn tỷ km, tương đương với một năm ánh sáng.
Cùng với sự tiến bộ của công nghệ, năng lượng tiêu hao cho một km bay từ năm 1990 là 2,9MJ đến nay đã giảm xuống còn 1,3 MJ. Tuy nhiên lượng CO 2 được thải ra trên một đơn vị - hoàn toàn không thay đổi. Điều này một phần đến từ nhiên liệu của máy bay hiện nay gần như không khác biệt với năm 1990, bao gồm cả nhiên liệu sinh học.
Nếu một km bay vào năm 1990 thải ra 357g CO2 thì đến năm 2019 con số này giảm xuống còn 157g. Thế nhưng nhu cầu vận tải hàng không lại tăng gấp 4 lần điều này đồng nghĩa với việc lượng khí thải đã tăng gấp đôi.
Có thể thấy rõ vấn đề này qua số liệu ngành hàng không toàn cầu thải ra khoảng 0,5 tỷ tấn CO2 vào năm 1990. Con số này vào năm 2019 khoảng 1 tỷ tấn.
Số liệu khí thải của ngành hàng không toàn cầu từ năm 1940 đến năm 2019. (Nguồn: OurWorldInData)
Lượng khí thải của ngành hàng không tăng gấp 4 lần
Theo thống kê dữ liệu hàng không từ giữa năm 1960 cho đến nay, lượng khí thải của ngành này thải ra môi trường tăng gấp bốn lần. Từ năm 2019, ngành hàng không chiếm 2,5% lượng khí thải CO2 từ các nguồn nguyên liệu hóa thạch được con người sử dụng, con số này trong năm 1990 chỉ khoảng 2% và tăng dần theo từng năm.
Ngoài ra ngành hàng không cũng chiếm khoảng 4% nguyên nhân gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu.
Cùng với việc thải ra CO2 từ việc đốt nhiên liệu, máy bay còn ảnh hưởng đến nồng độ các loại khí và chất ô nhiễm khác trong khí quyển. Chúng tạo ra sự gia tăng ngắn hạn nhưng lại làm giảm lượng ozone và khí mê-tan trong thời gian dài, đồng thời tăng lượng phát thải hơi nước, bồ hóng, khí lưu huỳnh. Trong khi một số tác động này dẫn đến sự nóng lên, những tác động khác lại gây ra hiệu ứng làm mát.
Mặc dù khí thải CO2 được chú ý nhiều nhất nhưng nó chỉ chiếm chưa đến một nửa nguyên nhân gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu, các yếu tố còn lại chiếm phần nhiều như vệt khói và hơi nước từ khí thải máy bay - chiếm tỷ trọng lớn nhất. Điều này giải thích tại sao hàng không đóng góp 2,5% lượng khí thải CO2 hàng năm nhưng tác động của nó đối với sự nóng lên toàn cầu lại lớn hơn.
Tỷ lệ phát thải toàn cầu của ngành hàng không có thể sẽ tăng lên khi các lĩnh vực khác giảm mức phát thải khí CO2 trong tương lai. Có thực tế khác là hàng không là một trong những lĩnh vực khó giảm phát thải cacbon nhất. Điện có thể trở thành nguồn điện có hàm lượng carbon thấp thông qua việc triển khai năng lượng tái tạo và hạt nhân; vận tải đường bộ và sưởi ấm thông qua điện khí hóa. Ngay cả những ngành công nghiệp “khó giảm bớt” như xi măng và thép cũng đang nổi lên những lựa chọn thay thế.
Trong khi đó, ngành hàng không gần như không có sự lựa chọn nào khác. Nhu cầu toàn cầu có thể sẽ tăng trong những thập kỷ tới khi dân số ngày càng giàu hơn. Do đó, sự gia tăng lượng khí thải sẽ được xác định bằng việc liệu ngành hàng không có thể duy trì những cải thiện về hiệu quả sử dụng năng lượng và chuyển sang sử dụng nhiên liệu có hàm lượng carbon thấp hay không. Cho đến nay, lĩnh vực này hầu như không đạt được tiến bộ nào về mặt kỹ thuật.
Mặc dù các máy bay ngày càng ít tiêu thụ nhiên liệu hơn có thể làm giảm phần nào sự gia tăng lượng khí thải nhưng chúng không thể loại bỏ chúng hoàn toàn. Để làm được điều đó, ngành công nghiệp hàng không sẽ cần chuyển từ nhiên liệu máy bay sang điện khí hóa, nhiên liệu sinh học, hydro hoặc kết hợp. Cho đến khi thực hiện chuyển đổi này, ngành hàng không sẽ sớm dẫn đầu trong tỷ lệ phát thải toàn cầu.
Trà Khánh" alt=""/>Ngành hàng không tạo ra bao nhiêu khí thải CO2?Dù vậy, Ford Ranger vẫn tiếp tục dẫn đầu thị trường trong tháng 7. Lũy kế 7 tháng năm 2024, Ford Việt Nam bán ra 9.019 chiếc Ranger, tăng nhẹ 2,78% so với cùng kỳ năm 2023 (8.775 chiếc).
Ford Ranger hiện có các phiên bản XL, XLS, XLT, Wildtrak, Stormtrak và mẫu đặc biệt nhập khẩu từ Thái Lan là Raptor. Giá bán xe dao động từ 659 triệu đến 1,299 tỷ đồng. Các phiên bản của Ranger có 2 tùy chọn động cơ là diesel 2.2L Turbo cho các phiên bản thấp và động cơ diesel 2.0L Bi-Turbo cho các phiên bản Wildtrak, Stormtrak và Raptor.
2. Toyota Hilux: 271 chiếc
Sau 3 tháng trở lại thị trường Việt Nam, Toyota Hilux đang duy trì được doanh số khá tốt. Lượng bán ra của mẫu xe này trong tháng 7 là 271 chiếc, tăng nhẹ 3 chiếc so với tháng 6, đủ để duy trì vị trí số 2 phân khúc bán tải và đứng trên Mitsubishi Triton.
Tổng cộng doanh số 7 tháng đầu năm 2024 của Toyota Hilux là 847 chiếc, tăng gấp hơn 10 lần so với cùng kỳ năm 2023 (72 chiếc).
Toyota Hilux hiện tại trên thị trường Việt là bản nâng cấp giữa vòng đời. Mẫu xe bán tải này vẫn dùng động cơ 2.4L cũ cho 2 phiên bản thấp là 4x4 MT và 4x2 AT, đồng thời bổ sung thêm động cơ 2.8L cho phiên bản cao cấp nhất 4x4 AT Adventure. Giá bán của các phiên bản lần lượt là 668, 706 và 999 triệu đồng.
3. Mitsubishi Triton: 204 chiếc
Trong tháng 7, có 204 chiếc bán tải Triton được Mitsubishi bán ra, giảm 18% so với tháng 6 (249 chiếc) và giảm 12% so với tháng cùng kỳ năm 2023 (232 chiếc). Đây là con số khá bất ngờ vì trước đó trong tháng 6 doanh số của Triton đã tăng tới 53%. Vì vậy, kết quả này không đủ sức để Triton vượt qua Hilux và phải ngậm ngùi tiếp tục duy trì vị trí số 3 phân khúc bán tải.
Lũy kế từ đầu năm đến nay, Mitsubishi Triton đạt doanh số 1.195 chiếc, giảm nhẹ 0,7% so với cùng kỳ năm 2023 (1.203 chiếc).
Mitsubishi Triton hiện bán ra thị trường 3 phiên bản: 4x2 AT MIVEC, 4x2 AT Athlete và 4x4 AT Athlete cùng giá bán lần lượt là 650-780-905 triệu đồng. Các phiên bản đều sử dụng khối động cơ dầu tăng áp 2.4L đi kèm hộp số tự động 6 cấp. Dự kiến trong tháng 8 này, thế hệ mới của Mitsubishi Triton sẽ ra mắt khách Việt với diện mạo khác hoàn toàn.
4. Isuzu D-Max: 50 chiếc
Isuzu Việt Nam đã bán được 50 chiếc D-Max trong tháng 7, tăng tới 38% so với tháng 6 (31 chiếc), đồng thời tăng 25% so với tháng 7/2023 (40 chiếc). Lũy kế 7 tháng năm 2024, Isuzu D-Max đạt doanh số 220 chiếc, giảm 35,8% so với cùng kỳ năm 2023 (343 chiếc).
Isuzu D-Max lâu nay vẫn thường xuyên đứng cuối bảng xếp hạng phân khúc bán tải và đến nay khi thị trường tạm vắng bóng Mazda BT-50 thì thứ hạng này vẫn không thay đổi. Mẫu xe này hiện được nhập khẩu từ Thái Lan với 3 phiên bản, giá bán từ 665-880 triệu đồng. D-Max được trang bị động cơ dầu tăng áp 1.9L, công suất 150 mã lực và mô-men xoắn 350Nm, đi kèm hộp số tự động 6 cấp, có tùy chọn dẫn động 1 cầu hoặc 2 cầu.
Bạn có đánh giá gì về các mẫu xe bán tải trên? Hãy để lại ý kiến dưới phần bình luận bên dưới hoặc chia sẻ bài viết về Ban Ô tô xe máy theo email: otoxemay@vietnamnet.vn. Các nội dung phù hợp sẽ được đăng tải. Xin cảm ơn!
Việc khuyên người bị ung thư nên kiêng đi đám ma xuất phát từ quan niệm rằng không khí đau buồn của đám tang sẽ mang lại năng lượng tiêu cực, làm suy yếu sức khỏe tinh thần của người mang bệnh nan y vốn đang rất lo lắng. Việc xuất hiện trong tang lễ sẽ ảnh hưởng xấu đến quá trình điều trị hay hồi phục của họ vì những cảm xúc tiêu cực bị khuếch đại trong không gian tràn ngập nỗi đau thương, mất mát.
Ở góc nhìn y học, không có bằng chứng nào cho thấy việc tham gia đám tang ảnh hưởng trực tiếp đến diễn biến của bệnh ung thư. Về việc một số trường hợp bị bệnh nặng hơn sau khi đi viếng tang, có thể giải thích như sau: Ở những người không được phát hiện sớm, sau khi điều trị, tế bào ung thư có thể vẫn tồn tại với số lượng ít trong cơ thể, sau đó phát triển khiến bệnh tái phát hoặc nặng thêm. Đây là diễn biến nội tại của bệnh chứ không phải là hậu quả của việc đi đám ma như nhiều người vẫn tưởng.
Tuy nhiên, việc dự đám ma quả thực có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe những người đang bệnh nặng, trong đó có bệnh nhân ung thư. Bản thân căn bệnh và quá trình trị liệu khiến hệ miễn dịch của họ suy yếu, sức chống đỡ với những tác động từ môi trường kém đi nhiều. Trong khi đó, ở đám ma rất đông người, nguy cơ lây các bệnh truyền nhiễm khá lớn. Chỉ cần nhiễm cúm thôi là sức khỏe của người bệnh đã tệ đi khá nhiều.
Có phải người bị ung thư nên kiêng đi đám ma?
Tóm lại, việc người bệnh ung thư có nên kiêng đi đám ma hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm sức khỏe thể chất, tình hình điều trị hiện tại, trạng thái tinh thần, tố chất tâm lý cá nhân cũng như mối quan hệ với người đã khuất.
Để vệ sức khỏe khi đi dự đám tang, những người có sức khỏe kém nên thực hiện một số biện pháp như ăn mặc đủ ấm với các lớp áo, đặc biệt là khi lễ tang được tổ chức ngoài trời hoặc trong điều kiện thời tiết lạnh. Nếu có thể, hãy mang theo một bình nước ấm để giúp giữ ấm cho cơ thể từ bên trong, sau khi về có thể xông bằng nước thảo dược, dùng nước nấu bằng các loại lá có tinh dầu mạnh như sả, lá bưởi, tía tô, bạch đàn, trầu không, đinh lăng... để tắm.
Nếu dự đám tang vào mùa nóng, cần đặc biệt chú ý hơn vì đây là lúc vi khuẩn phát triển mạnh, nên đeo khẩu trang, sát khuẩn tay. Sau khi trở về nhà, nên thay quần áo và làm vệ sinh cá nhân cẩn thận.
Về mặt tinh thần, nên cố gắng giữ trạng thái bình tĩnh, cân bằng, tập trung vào tình cảm và sự chia buồn đối với gia quyến thay vì để các yếu tố xung quanh ảnh hưởng quá mức; tiếp xúc và trò chuyện với những người xung quanh để tạo cảm giác ấm cúng.
Nhật Thùy" alt=""/>Có phải người bị ung thư nên kiêng đi đám ma?