41377eafbfa71fca80f95cae0d615645.jpeg
Từ nhỏ, Hải Tử được nhiều người ca tụng là thần đồng. Ảnh: Baidu

Không chỉ bộc lộ tài năng thơ ca, thành tích học tập của anh cũng tương đối tốt, liên tục vượt cấp. 10 tuổi, Hải Tử được tuyển thẳng vào một trường THCS trọng điểm của địa phương. Lúc này, mọi người không ngừng ca tụng cậu bé. 

Dù có tài năng thiên phú nhưng Hải Tử chưa bao giờ ngừng cố gắng. Trong khi bạn bè đồng trang lứa mải chơi, cậu bé dành thời gian học tập chăm chỉ. Nhờ sự nỗ lực không ngừng, tham gia kỳ thi tuyển sinh đại học năm 1979, Hải Tử trở thành thủ khoa tỉnh An Huy (Trung Quốc).

Thành tích này giúp anh đỗ khoa Luật của Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc). Bước chân vào đại học ở tuổi 15, Hải Tử không khỏi bỡ ngỡ. Tuy nhiên, anh nhanh chóng thích nghi với môi trường đại học và dành phần lớn thời gian học. 

Suốt 4 năm đại học, Hải Tử tích cực đọc nhiều sách Văn học. Vào năm thứ hai, anh tham gia CLB Văn học của trường, tình cờ gặp được Lạc Nhất Hòa - sinh viên khoa tiếng Trung. Dưới sự động viên của Lạc Nhất Hòa, ngọn lửa đam mê thơ ca của Hải Tử được thổi bùng. Do đó, năm 1982, Hải Tử bắt tay vào làm thơ. 

1 năm sau, tập thơ Trạm nhỏcủa Hải Tử chính thức được xuất bản. Cùng năm, ở tuổi 19, chàng sinh viên khoa Luật của Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc) tốt nghiệp. Lúc này, anh đứng trước hai sự lựa chọn giảng dạy hoặc làm công việc liên quan đến pháp lý. 

Cân nhắc kỹ lưỡng Hải Tử quyết định gắn bó với giảng đường đại học. Sự lựa chọn của anh khiến bố mẹ hạnh phúc. Họ tin rằng, tương lai của con trai được đảm bảo và cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn với công việc 'bát cơm sắt'.

Sau đó, Hải Tử được bổ nhiệm làm giảng viên khoa Giảng dạy và Nghiên cứu Triết học tại Đại học Khoa học Chính trị và Pháp luật Trung Quốc. Tranh thủ ngoài thời gian lên lớp, Hải Tử còn sáng tác. Kết quả, năm 1985, Hải Tử xuất bản bài thơ Đồng châu Á và nhận được sự quan tâm của nhiều người.

Thậm chí tài năng của anh cũng thu hút nhiều cô gái trẻ để mắt. Không lâu sau, Hải Tử tìm được tình yêu đời mình là cô học trò Ba Uyển. Khi tình yêu giữa hai người đang đẹp, gia đình phát hiện mối quan hệ của Ba Uyển và thầy giáo. Không chấp nhận tình yêu thầy trò tồn tại, đồng thời vấp phải sự phản đối và áp lực từ gia đình, Hải Tử và Ba Uyển buộc phải chia tay. 

Kết thúc mối tình đầu, Hải Tử bị tổn thương tinh thần, một người đồng nghiệp xuất hiện. Nhưng mối tình này cũng không đem đến kết quả. Sau mỗi lần kết thúc một mối tình, Hải Tử hụt hẫng và u sầu nên anh thường dùng thơ bày tỏ nỗi lòng.

Lúc này, người thân khuyên anh tập trung vào công việc, sự nghiệp thay vì đắm chìm trong thơ ca. Không có tình yêu và chỗ dựa tinh thần, Hải Tử chìm đắm trong rượu chè. Sự tê liệt của những cơn say khiến anh quên đi vết thương tình ái. Cảm xúc trống rỗng không có 'dưỡng chất' nuôi tinh thần, cuộc sống của Hải Tử mất đi ánh hào quang.

Trải qua nhiều mối tình thất bại cùng sự sức ép của người thân vì không tập trung phát triển sự nghiệp, Hải Tử cự tuyệt không giao tiếp. Khi nỗi u uất ngày càng lớn và bị dồn nén quá mức, dẫn đến việc anh bị trầm cảm. 

Năm 1989, Hải Tử đón Tết lần cuối ở quê nhà An Huy (Trung Quốc). Sau đó, anh viết đơn xin nghỉ việc tại Đại học Chính trị và Pháp luật Trung Quốc. Điều này vấp phải sự phản đối kịch liệt của bố mẹ. Không tranh cãi với gia đình, Hải Tử chọn cách bỏ đi. 

Đến ngày 26/3/1989, Hải Tử chọn cách kết liễu cuộc đời ở tuổi 25. Sự ra đi của thiên tài Hải Tử, khiến nhiều người xót thương. Đến nay, sự ra đi đột ngột ở tuổi 25 của Hải Tử vẫn là chủ đề được nhiều người quan tâm.

Nhà thơ Hải Tử ra đi để lại cho nền Văn học Trung Quốc một số tập thơ đồ sộ như: Trạm nhỏ, Dòng sông, Sống trong kiếp người quý giá, Cánh đồng lúa tháng 5, Tổ quốc, Mặt hướng biển khơi, xuân sang hoa nở

Thần đồng 12 tuổi tốt nghiệp đại học, chứng minh Albert Einstein ‘sai lầm’MỸ- Cậu bé William Maillis hoàn thành chương trình phổ thông năm 9 tuổi và cử nhân đại học 3 năm sau. Cậu đặt mục tiêu lấy bằng tiến sĩ ở tuổi 18, nhằm sử dụng khoa học phản bác một số lý thuyết của nhà bác học Albert Einstein và Stephen Hawking." />

Bi kịch của thủ khoa đại học sau 10 năm

Bóng đá 2025-03-02 22:07:01 6119

Thần đồng Hải Tử tên thật là Tra Hải Sinh (1964-1989),ịchcủathủkhoađạihọcsaunăbảng xep hạng anh xuất thân trong một gia đình bình thường ở thị trấn Cao Hà, huyện Hoài Ninh (tỉnh An Huy, Trung Quốc). Ở tuổi lên 3, cậu bé bộc lộ tố chất thơ ca. Khi được mẹ dạy chữ trong sách Văn học An Huy, hôm sau, khi thấy 4 chữ này Hải Tử đọc to trước sự ngỡ ngàng của gia đình.

Nhận thấy con trai nhạy cảm với ngôn từ, mẹ anh tập trung vào việc phát triển tài năng của Hải Tử. Bằng cách bà mượn các loại sách và tạp chí của hàng xóm về đọc cho Hải Tử khi rảnh.

Thời điểm đó, phong trào học Mao ngữ lục (Mao Trạch Đông ngữ lục) phổ biến ở Trung Quốc. Để khích lệ tinh thần học tập của người dân, địa phương nơi Hải Tử ở tổ chức cuộc thi Nghe đọc Mao ngữ lục. Đây là cuộc thi ai cũng có thể tham gia, vì vậy mẹ đã đăng ký cho Hải Tử.

Ngày cuộc thi diễn ra, mọi người tập trung dưới gốc đa đầu làng. Người dẫn chương trình lần lượt mời từng thí sinh lên sân khấu trình bày phần thi. Không ai ngờ chiến thắng thuộc về cậu bé 4 tuổi này. Từ đó về sau, dân làng gọi cậu là thần đồng. 

41377eafbfa71fca80f95cae0d615645.jpeg
Từ nhỏ, Hải Tử được nhiều người ca tụng là thần đồng. Ảnh: Baidu

Không chỉ bộc lộ tài năng thơ ca, thành tích học tập của anh cũng tương đối tốt, liên tục vượt cấp. 10 tuổi, Hải Tử được tuyển thẳng vào một trường THCS trọng điểm của địa phương. Lúc này, mọi người không ngừng ca tụng cậu bé. 

Dù có tài năng thiên phú nhưng Hải Tử chưa bao giờ ngừng cố gắng. Trong khi bạn bè đồng trang lứa mải chơi, cậu bé dành thời gian học tập chăm chỉ. Nhờ sự nỗ lực không ngừng, tham gia kỳ thi tuyển sinh đại học năm 1979, Hải Tử trở thành thủ khoa tỉnh An Huy (Trung Quốc).

Thành tích này giúp anh đỗ khoa Luật của Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc). Bước chân vào đại học ở tuổi 15, Hải Tử không khỏi bỡ ngỡ. Tuy nhiên, anh nhanh chóng thích nghi với môi trường đại học và dành phần lớn thời gian học. 

Suốt 4 năm đại học, Hải Tử tích cực đọc nhiều sách Văn học. Vào năm thứ hai, anh tham gia CLB Văn học của trường, tình cờ gặp được Lạc Nhất Hòa - sinh viên khoa tiếng Trung. Dưới sự động viên của Lạc Nhất Hòa, ngọn lửa đam mê thơ ca của Hải Tử được thổi bùng. Do đó, năm 1982, Hải Tử bắt tay vào làm thơ. 

1 năm sau, tập thơ Trạm nhỏcủa Hải Tử chính thức được xuất bản. Cùng năm, ở tuổi 19, chàng sinh viên khoa Luật của Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc) tốt nghiệp. Lúc này, anh đứng trước hai sự lựa chọn giảng dạy hoặc làm công việc liên quan đến pháp lý. 

Cân nhắc kỹ lưỡng Hải Tử quyết định gắn bó với giảng đường đại học. Sự lựa chọn của anh khiến bố mẹ hạnh phúc. Họ tin rằng, tương lai của con trai được đảm bảo và cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn với công việc 'bát cơm sắt'.

Sau đó, Hải Tử được bổ nhiệm làm giảng viên khoa Giảng dạy và Nghiên cứu Triết học tại Đại học Khoa học Chính trị và Pháp luật Trung Quốc. Tranh thủ ngoài thời gian lên lớp, Hải Tử còn sáng tác. Kết quả, năm 1985, Hải Tử xuất bản bài thơ Đồng châu Á và nhận được sự quan tâm của nhiều người.

Thậm chí tài năng của anh cũng thu hút nhiều cô gái trẻ để mắt. Không lâu sau, Hải Tử tìm được tình yêu đời mình là cô học trò Ba Uyển. Khi tình yêu giữa hai người đang đẹp, gia đình phát hiện mối quan hệ của Ba Uyển và thầy giáo. Không chấp nhận tình yêu thầy trò tồn tại, đồng thời vấp phải sự phản đối và áp lực từ gia đình, Hải Tử và Ba Uyển buộc phải chia tay. 

Kết thúc mối tình đầu, Hải Tử bị tổn thương tinh thần, một người đồng nghiệp xuất hiện. Nhưng mối tình này cũng không đem đến kết quả. Sau mỗi lần kết thúc một mối tình, Hải Tử hụt hẫng và u sầu nên anh thường dùng thơ bày tỏ nỗi lòng.

Lúc này, người thân khuyên anh tập trung vào công việc, sự nghiệp thay vì đắm chìm trong thơ ca. Không có tình yêu và chỗ dựa tinh thần, Hải Tử chìm đắm trong rượu chè. Sự tê liệt của những cơn say khiến anh quên đi vết thương tình ái. Cảm xúc trống rỗng không có 'dưỡng chất' nuôi tinh thần, cuộc sống của Hải Tử mất đi ánh hào quang.

Trải qua nhiều mối tình thất bại cùng sự sức ép của người thân vì không tập trung phát triển sự nghiệp, Hải Tử cự tuyệt không giao tiếp. Khi nỗi u uất ngày càng lớn và bị dồn nén quá mức, dẫn đến việc anh bị trầm cảm. 

Năm 1989, Hải Tử đón Tết lần cuối ở quê nhà An Huy (Trung Quốc). Sau đó, anh viết đơn xin nghỉ việc tại Đại học Chính trị và Pháp luật Trung Quốc. Điều này vấp phải sự phản đối kịch liệt của bố mẹ. Không tranh cãi với gia đình, Hải Tử chọn cách bỏ đi. 

Đến ngày 26/3/1989, Hải Tử chọn cách kết liễu cuộc đời ở tuổi 25. Sự ra đi của thiên tài Hải Tử, khiến nhiều người xót thương. Đến nay, sự ra đi đột ngột ở tuổi 25 của Hải Tử vẫn là chủ đề được nhiều người quan tâm.

Nhà thơ Hải Tử ra đi để lại cho nền Văn học Trung Quốc một số tập thơ đồ sộ như: Trạm nhỏ, Dòng sông, Sống trong kiếp người quý giá, Cánh đồng lúa tháng 5, Tổ quốc, Mặt hướng biển khơi, xuân sang hoa nở

Thần đồng 12 tuổi tốt nghiệp đại học, chứng minh Albert Einstein ‘sai lầm’MỸ- Cậu bé William Maillis hoàn thành chương trình phổ thông năm 9 tuổi và cử nhân đại học 3 năm sau. Cậu đặt mục tiêu lấy bằng tiến sĩ ở tuổi 18, nhằm sử dụng khoa học phản bác một số lý thuyết của nhà bác học Albert Einstein và Stephen Hawking.
本文地址:http://vip.tour-time.com/html/495c899206.html
版权声明

本文仅代表作者观点,不代表本站立场。
本文系作者授权发表,未经许可,不得转载。

全站热门

Soi kèo phạt góc Bologna vs AC Milan, 02h45 ngày 28/2

Hội thảo vừa được Bộ TT&TT tổ chức về Chính sách xuất nhập khẩu nguyên liệu, vật tư linh kiện và sản phẩm CNTT. Ảnh: Trọng Đạt

“Các doanh nghiệp điện tử Việt Nam còn rất nhiều hạn chế về quy mô, công nghệ. Nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp CNTT, điện tử, Chính phủ và Bộ TT&TT đã triển khai chiến lược Make in Việt Nam với trọng tâm là thiết kế, sáng tạo và sản xuất tại Việt Nam”, ông Nguyễn Thiện Nghĩa nói.

Chia sẻ tại hội nghị, ông Phạm Hải Phong - Nghiên cứu viên Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách Công thương (Bộ Công thương) cho hay, các nhà cung cấp linh kiện điện tử Việt Nam đang được định vị ở cuối đồ thị nụ cười. 

Các doanh nghiệp của chúng ta thường gắn với những khâu có giá trị gia tăng thấp như sản xuất, lắp ráp. Trong khi đó, các khâu quan trọng của chuỗi sản xuất như R&D, xây dựng thương hiệu, thiết kế, logistic, tiếp thị, bán hàng,... đều nằm trong tay doanh nghiệp ngoại. 

Đồ thị "đường cong nụ cười" thường được dùng để nói về vai trò các thành phần trong chuỗi cung ứng. 

“Các công ty Hàn Quốc thường có nhà cung ứng lớp 1 là doanh nghiệp Hàn Quốc. Cũng có một số nhà sản xuất Việt Nam trở thành đơn vị cung ứng lớp 1 nhưng số lượng rất ít, với các sản phẩm đơn giản. Các công ty Việt Nam chủ yếu tham gia vào lớp thứ 2 hoặc thứ 3 của chuỗi cung ứng này”,ông Phạm Hải Phong chia sẻ.

Theo chuyên gia của Bộ Công thương, ở lĩnh vực điện, điện tử, những nhà sản xuất FDI chiếm tỷ trọng lớn trong chuỗi cung ứng cho ngành. Các công ty Việt Nam vừa nhỏ, số lượng ít và năng lực cung ứng cũng không mạnh. Một số linh kiện điện tử mà Việt Nam có tiềm năng sản xuất là bộ dẫn điện, bảng mạch điện tử và các sản phẩm điện tử tiêu dùng như thiết bị y tế, chăm sóc sức khỏe,...

Chia sẻ về thực trạng của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam, bà Đỗ Thị Thúy Hương - Ủy viên Ban chấp hành Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam (VEIA) cho biết, ngành công nghiệp điện tử Việt Nam có đặc thù là thâm dụng lao động lớn. Điều đó ngược hẳn với ngành công nghiệp điện tử ở các nước khác. Nguyên nhân do chúng ta chủ yếu tập trung vào khâu lắp ráp. Hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc và Hoa Kỳ. 

Bà Đỗ Thị Thúy Hương - Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam. Ảnh: Trọng Đạt

Theo bà Hương, các doanh nghiệp điện tử nội địa đang gặp thách thức lớn về việc đảm bảo đủ năng lực về công nghệ, nhân lực và quản trị sản xuất. 

Thách thức thứ hai đến từ những áp lực phải đảm bảo tiến độ và chất lượng hàng giao, đồng thời tuân thủ quy định khắt khe của người mua hàng (các công ty đa quốc gia). Bên cạnh đó là việc phải chịu sự đánh giá và kiểm soát của các công ty đầu chuỗi với những yêu cầu tối ưu hóa quá trình sản xuất hàng ngày. 

Đại diện cộng đồng doanh nghiệp điện tử Việt Nam, bà Đỗ Thị Thúy Hương đề xuất Chính phủ và Quốc hội cần ban hành các chính sách một cách nhất quán, ổn định, có tiên lượng lâu dài, trong đó ưu tiên cho doanh nghiệp nội. 

Đại diện Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam mong muốn các cơ quan Chính phủ thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, tập huấn nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết về pháp luật xuất nhập khẩu, đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc kinh doanh, kết nối thương mại.

Chính phủ và các bộ ngành đang triển khai nhiều giải pháp nhằm giúp ngành sản xuất phần cứng điện tử Việt Nam phát triển. Ảnh: Trọng Đạt

Theo ông Nguyễn Thiện Nghĩa, để giải quyết bất cập về chính sách, hỗ trợ thúc đẩy nghiên cứu phát triển, sản xuất sản phẩm phần cứng điện tử Việt Nam, ngày 31/12/2022, Bộ TT&TT đã ký ban hành Thông tư 25/2022/TT-BTTTT về xác định nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu được miễn thuế nhập khẩu phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất sản phẩm CNTT, nội dung số, phần mềm. 

Đây là chính sách quan trọng nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp nội trong sản xuất sản phẩm CNTT, giải quyết bất cập chênh lệch về thuế nhập khẩu sản phẩm nguyên chiếc thấp hơn thuế nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, linh kiện.

">

Doanh nghiệp điện tử Việt Nam đang nằm dưới đáy “đường cong nụ cười”

Dữ liệu của Amazon cho thấy trong ba năm qua, số lượng thương hiệu Việt Nam đăng ký thương hiệu trên Amazon (Brand Registry) đã tăng gấp 7 lần.

Amazon Global Selling Việt Nam vừa công bố các xu hướng mới nhất về xây dựng- bảo hộ thương hiệu và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong xuất khẩu trực tuyến của các đối tác bán hàng Việt Nam. Đồng thời, Amazon cũng nhấn mạnh những nỗ lực trong việc thúc đẩy bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử xuyên biên giới. Thông qua kêu gọi các tổ chức trong ngành, các cơ quan thi hành pháp luật cũng như các đối tác bán hàng và thương hiệu Việt hợp tác tăng cường xây dựng thương hiệu và nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ngành xuất khẩu trực tuyến, nền tảng này hy vọng có thể cùng chung tay thúc đẩy sự phát triển lành mạnh và bền vững ngành thương mại điện tử xuyên biên giới tại Việt Nam.

Nhận thức của các đối tác bán hàng Việt Nam về tầm quan trọng của việc xây dựng - bảo hộ thương hiệu và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiện đang từng bước được cải thiện. Dữ liệu của Amazon cho thấy trong ba năm qua, số lượng thương hiệu Việt Nam đăng ký thương hiệu trên Amazon (Brand Registry) đã tăng gấp 7 lần và thời gian để đối tác bán hàng Việt Nam chuyển từ giai đoạn đăng ký tài khoản đến đăng ký thương hiệu đã rút ngắn trung bình 85%. Ngoài ra, các đối tác bán hàng Việt Nam đang ngày càng quan tâm đến việc mở rộng toàn cầu, với 18,6% các đối tác bán hàng đã được bảo hộ nhãn hiệu tại Hoa Kỳ, châu Âu, Nhật Bản cũng như các khu vực khác.

Theo một khảo sát gần đây của Amazon, bên cạnh tăng trưởng doanh số, việc xây dựng và phát triển thương hiệu toàn cầu cũng là một trong những động lực thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam gia nhập thương mại điện tử xuyên biên giới. Trong những năm gần đây, những đối tác bán hàng thành công từ Việt Nam cũng cho thấy sự đầu tư nghiêm túc vào việc đăng ký và xây dựng thương hiệu, tận dụng các công cụ và sản phẩm của nền tảng để tìm hiểu nhu cầu khách hàng; thu hút và thúc đẩy lượng truy cập vào cửa hàng trực tuyến và trang bán hàng, đồng thời nỗ lực nâng cấp hình ảnh, nội dung, câu chuyện về sản phẩm và thương hiệu. Ngoài ra, theo một khảo sát nội bộ, các đối tác bán hàng Việt Nam thể hiện sự hài lòng cao đối với các sản phẩm và dịch vụ của Amazon trong việc hỗ trợ người bán xây dựng thương hiệu riêng (mức độ hài lòng cao đứng thứ 2 trong số các danh mục đánh giá).

Trong bối cảnh Việt Nam đang dần bước vào một giai đoạn mới của thương mại điện tử xuyên biên giới, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong xuất khẩu trực tuyến ngày càng trở nên quan trọng. Trong những năm qua, Hiệp hội Doanh nghiệp Đầu tư nước ngoài (VAFIE) đã khẳng định tầm quan trọng của việc bảo hộ thương hiệu và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử. 

Ông Nguyễn Văn Toàn, Phó Chủ tịch VAFIE cho biết: “Việt Nam đã và đang thực hiện nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ một cách hiệu quả. Đầu tư mạnh mẽ vào các quyền sở hữu trí tuệ là một động lực tích cực giúp kích thích năng lực đổi mới trong nước và nâng cao khả năng cạnh tranh toàn cầu, đồng thời giúp các doanh nghiệp và kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng và có hiệu quả với các quốc gia trên thế giới. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc hợp tác với các tổ chức và hiệp hội thương mại để hỗ trợ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và ngăn chặn hàng giả, hàng nhái cũng như nâng cao năng lực thực thi quyền và nghĩa vụ theo luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam và các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể tìm hiểu hướng dẫn đăng ký, bảo vệ nhãn hiệu và bằng sáng chế của Bộ Khoa Học & Công Nghệ khi giới thiệu sản phẩm hoặc dịch vụ ra thị trường trong nước và liên hệ các tổ chức quốc tế uy tín để được bảo hộ thương hiệu khi đưa sản phẩm ra thị trường nước ngoài.” 

Amazon ra mắt công cụ giúp người dùng tự xây dựng chatbot AI

Amazon ra mắt công cụ giúp người dùng tự xây dựng chatbot AI

Ngày 13/4, bộ phận điện toán đám mây của Amazon thông báo ra mắt bộ công cụ cho phép khách hàng tự xây dựng chatbot tạo sinh hình ảnh và văn bản riêng dựa trên trí tuệ nhân tạo.">

Cá nhân và doanh nghiệp Việt đăng ký thương hiệu trên Amazon tăng gấp 7 lần

Đứng tim trước cảnh bé gái bị diều khổng lồ cuốn lên không trung

Nhận định, soi kèo Al Hussein Irbid vs Moghayer Al Sarhan, 23h45 ngày 28/2: Khó có bất ngờ

PGS Bùi Mạnh Hùng: Trước hết, xin khẳng định chủ trương “có một số SGK cho mỗi môn học” (đôi khi được diễn giải thành “một chương trình, nhiều (bộ) SGK”) là một nội dung có tính đột phá của Nghị quyết số 88 về đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông. Chủ trương này có khả năng góp phần giúp giáo dục Việt Nam hội nhập với thế giới.

{keywords}
PGS Bùi Mạnh Hùng

Hiện nay, không có bất kì một quốc gia phát triển nào, từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Đức, Phần Lan,… đến Hoa Kỳ, chỉ dùng một bộ SGK duy nhất. Thậm chí một số nước như Vương quốc Anh, Australia,… quy định không dùng SGK để giáo viên được chủ động, sáng tạo thiết kế bài dạy đáp ứng nhu cầu và năng lực của người học.

Theo mô hình chương trình phát triển năng lực và có tính mở như chương trình giáo dục phổ thông mới được ban hành của Việt Nam thì việc sử dụng một số bộ SGK khác nhau là phù hợp.

Việc xã hội hóa biên soạn SGK cũng tạo điều kiện huy động các nguồn lực xã hội, tạo môi trường cạnh tranh để học sinh và giáo viên có thể có được những bộ SGK tốt nhất.

Nếu chỉ có một bộ SGK duy nhất thì có phần rủi ro vì như cách nói của dân gian “bỏ hết tất cả trứng vào một giỏ”. Nếu chỉ dùng một bộ SGK thì mọi thử nghiệm sư phạm để cải tiến, nâng cao chất lượng SGK gặp nhiều khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả thi.

Do chủ trương một số SGK cho một môn học có nhiều ưu điểm nổi bật nên nó được đón nhận rất tích cực trong thời gian qua và mang lại nhiều kì vọng về đổi mới giáo dục phổ thông. Tuy nhiên, việc Thường vụ Quốc hội nêu trước mắt chỉ thực hiện một bộ SGK, tôi nghĩ, chắc hẳn có một lí do chính đáng nào đó. Có thể xuất phát từ một số quan ngại mà Bộ GD-ĐT cần phải làm rõ và tháo gỡ để chủ trương vốn được quy định rõ trong Nghị quyết 88 của Quốc hội được triển khai một cách thông suốt. Chủ tịch Quốc hội nói chủ trương “một chương trình, nhiều SGK” cần có lộ trình thực hiện, khi nào đất nước bảo đảm các điều kiện kinh tế xã hội thì sẽ áp dụng. Đó là ý kiến ở tầm vĩ mô, không đề cập đến những nội dung cụ thể.

Theo tôi, như đã nêu trên, chủ trương “một chương trình, nhiều SGK” là xu thế chung của các nước phát triển. Nhưng để triển khai chủ trương này thì cần có những điều kiện nhất định.

Chẳng hạn, phải có đủ tác giả có năng lực biên soạn một số SGK có chất lượng tốt (trong điều kiện hiện tại của VN, biên soạn đến 5 – 6 bộ SGK thì không còn đủ nhân lực để bảo đảm chất lượng cho sách); quan niệm về SGK và tài liệu dạy học phải mềm dẻo để tránh tuyệt đối hóa vai trò của SGK; trình độ quản lí của các cơ sở giáo dục và năng lực của giáo viên phải được nâng cao hơn nữa; và tư duy của xã hội về giáo dục cũng cần phải thay đổi, phù hợp với xu thế hiện đại;…

Ngoài ra, theo tôi, một điều kiện quan trọng khác là phải tạo được một môi trường cạnh tranh bình đẳng và minh bạch. Nếu không thì một chủ trương tốt có thể dẫn đến những tác động tiêu cực trong khi giáo dục là một lĩnh vực hệ trọng và đòi hỏi mọi thứ phải minh bạch và thực sự tử tế. Nhìn từ chiều ngược lại thì chính chủ trương một chương trình, một số SGK lại tạo cơ hội cho các điều kiện nói trên được chín muồi.

Trong thời gian qua, Bộ GD và ĐT đã triển khai rất tích cực và hiệu quả việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông mới. Tuy nhiên, để Quốc hội và công luận ủng hộ chủ trương “một số SGK cho một môn học”, Bộ cần có những bước đi và chủ trương rõ ràng và thuyết phục hơn.

Tôi rất quan tâm đến ý “trước mắt” và “lộ trình” trong phát biểu của Thường vụ Quốc hội.

Như vậy, Thường vụ Quốc hội nêu chủ trương áp dụng một chương trình, một SGK chỉ trong thời gian không dài.

Theo tôi, nếu chủ trương này được chính thức hóa bằng văn bản luật thì nên có một hình thức nào đó phù hợp quy định rõ hơn khi nào chủ trương một chương trình, một số SGK cho mỗi môn học sẽ được áp dụng.

Nếu vì một lí do thực sự chính đáng nào đó, Việt Nam có thể tạm thời chưa áp dụng chủ trương một số SGK cho mỗi môn học, nhưng nếu kéo dài trong thời gian không xác định thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dạy học và khả năng hội nhập thế giới của giáo dục Việt Nam, vênh lệch với định hướng phát triển giáo dục được thiết kế trong chương trình giáo dục phổ thông mới được ban hành.

Phóng viên: Việc hoãn thời gian thực hiện chủ trương 1 chương trình nhiều bộ sách giáo khoa ảnh hưởng đến các cơ sở giáo dục và các nhà xuất bản ra sao?

PGS Bùi Mạnh Hùng: Việc hoãn chủ trương này có thể làm cho một số người cảm thấy “nhàn hơn”, việc triển khai chương trình và SGK bước đầu thuận lợi hơn vì có phần giống với cách làm quen thuộc lâu nay. Nhưng chắc chắn sẽ gây hụt hẫng cho nhiều cán bộ quản lí giáo dục và giáo viên đang kì vọng vào đổi mới.

Còn đối với các nhà xuất bản và tổ chức đã triển khai việc biên soạn SGK trong thời gian qua thì chắc chắc là việc hoãn thời gian thực hiện chủ trương một chương trình, nhiều SGK sẽ có ảnh hưởng rất lớn.

Để bảo đảm lộ trình đưa SGK lớp 1 vào năm 2020 được Quốc hội phê duyệt, kế hoạch trước đó là năm 2019, thì tất cả các tổ chức đầu tư làm SGK đều phải chuẩn bị từ rất sớm và tích cực.

SGK đòi hỏi chất lượng rất nghiêm ngặt nên khó có thể biên soạn nhanh được.

Vì vậy, ngay từ sau ngày 19/1/2018, khi dự thảo chương trình các môn học được công bố thì các nhóm tác giả biên soạn SGK đã có thể tổ chức hội thảo, trao đổi, xây dựng đề cương chi tiết và phác thảo các bài soạn thử. 

Đội ngũ tác giả của mỗi nhóm lên đến hàng trăm người, trong đó có rất nhiều GS, PGS, TS, chuyên gia đầu ngành. Nhiều khoản tiền rất lớn đã được đầu tư. Đặc biệt là nhiều công sức và tâm huyết của hàng ngàn người đã bỏ ra trong hơn 1 năm qua, chưa kể những chuẩn bị trước đó.

Đánh giá thay đổi chủ trương về SGK, tôi nghĩ trước hết và quan trọng nhất là đánh giá hiệu quả tác động đến nhà trường, xã hội, chứ không phải là các nhà đầu tư và những người tham gia biên soạn SGK. Tuy vậy, cũng không nên bỏ qua những tổn thất nói trên, vì dù sao đó cũng là nguồn lực xã hội, từ nguồn lực tài chính đến nguồn lực con người, nói đến con người thì phải nói đến cả lòng tin và sự kì vọng.

Phóng viên: Ông có kiến nghị gì về việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội để chủ trương 1 chương trình nhiều bộ sách giáo khoa được triển khai có hiệu quả?

Trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, không nên có quá nhiều SGK vì quả là chúng ta chưa có đủ điều để làm nhiều bộ sách. Kinh nghiệm của nhiều nước, ngay cả các nước phát triển như Đức, Phần Lan,… thì qua cạnh tranh và chọn lọc, cuối cùng họ cũng chỉ có vài ba bộ SGK chính.

Cũng cần phải chờ xem ý kiến chỉ đạo của cấp trên như thế nào thì mới có cơ sở để bàn việc triển khai. Tuy nhiên, theo tinh thần Nghị quyết 88 của Quốc hội thì dù thế nào đi nữa cũng sẽ có một bộ SGK do Bộ GD- ĐT tổ chức biên soạn.

Cho đến nay, bộ SGK đó vẫn chưa được triển khai. Theo tôi, trong thời điểm hiện tại thì chủ trương biên soạn một bộ SGK của Bộ GD & ĐT có thể là một khó khăn lớn đối với Bộ vì một số lí do sau đây:

Thứ nhất: Đến nay, chúng ta không còn có cơ hội để tổ chức biên soạn một bộ SGK của Bộ theo đúng nghĩa của nó. Đúng nghĩa có nghĩa là tác giả của bộ sách này phải là tác giả của Bộ, trong khi hiện nay, gần như tất cả các nhà giáo, nhà chuyên môn có khả năng biên soạn SGK mới đều đã thuộc về các nhóm biên soạn SGK cho các NXB và tổ chức đầu tư khác nhau. Công việc biên soạn, biên tập, thiết kế đã triển khai hơn một năm nay. Cho nên, việc thành lập một nhóm tác giả mới hoàn toàn, độc lập với lợi ích của các nhà đầu tư là điều không thể vì không có đủ tác giả có năng lực soạn một bộ SGK.

Thứ hai, nếu thành lập nhóm tác giả gọi là “của Bộ” từ tác giả của các nhóm khác nhau thì: 1) Khó có thể nói là những tác giả đó không còn là ràng buộc lợi ích với các tổ chức mà họ đã kí hợp đồng và đã được đầu tư; 2) Mỗi nhóm biên soạn SGK đều có một “triết lí” riêng, việc triển khai một bộ SGK đòi hỏi những kết nối dọc (giữa các cấp trong một môn) và ngang (giữa các môn trong một cấp, lớp); việc “lắp ghép” tác giả của các nhóm chắc hẳn sẽ làm ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng SGK. Đó có thể chỉ là tập hợp SGK các môn, các lớp, chứ không phải là một bộ sách thống nhất.

Thứ ba, có một phương án khác là lựa chọn một NXB có đội ngũ tác giả, biên tập viên, họa sĩ,… có năng lực và kinh nghiệm tốt nhất đảm nhiệm việc tổ chức biên soạn một bộ SGK, có triết lí thống nhất, có sự kết nối dọc và ngang, có sự phối hợp chặt chẽ giữa tất cả các khâu của quá trình biên soạn. Tuy nhiên, đó cũng chỉ phương án khả dĩ, chưa phải là phương án tối ưu.

Liên quan trực tiếp đến câu hỏi “có kiến nghị gì về việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội để chủ trương 1 chương trình nhiều bộ sách giáo khoa được triển khai có hiệu quả”, tôi xin trả lời như sau: Để thực hiện chủ trương có một số SGK cho mỗi môn học theo tinh thần bình đẳng và minh bạch, không nên quy định có bộ SGK của Bộ và không nên vay tiền nước ngoài để làm SGK. Tiền vay của Ngân hàng Thế giới, một sự ủng hộ rất đáng quý của quốc tế, nên để hỗ trợ SGK cho học sinh vùng cao, phát triển thư viện các trường ở những vùng khó khăn.

Hãy để cho các NXB và các tổ chức tự đầu tư làm SGK và có cơ hội bình đẳng với nhau. Như vậy mới mong có được sự cạnh tranh lành mạnh. Tạo được môi trường thuận lợi cho sự phát triển SGK một cách bền vững. Có thể ban đầu có những vấn đề của nó. Nhưng dần dần nó sẽ được khắc phục. Còn nếu dùng tiền vay của nước ngoài để đầu tư cho một bộ SGK mà cách làm không minh bạch và công bằng thì dư luận có thể đặt ra một câu hỏi lớn!

Khi xây dựng Nghị quyết 88, đã có nhiều ý kiến băn khoăn về chủ trương có một bộ SGK do Bộ GD-ĐT tổ chức biên soạn, nhưng cũng có nhiều người ủng hộ và cuối cùng đã được thông qua vì lo ngại nếu không có một bộ SGK làm chủ lực thì sẽ không có đủ SGK các môn học, có chất lượng và kịp tiến độ.

Nhưng lo ngại đó là không có cơ sở. Khi có lộ trình rõ ràng thì tất cả các NXB đều phải quyết liệt triển khai cho đúng tiến độ. Có cạnh tranh bình đẳng và minh bạch thì tất sẽ có chất lượng.

Nếu muốn có đủ SGK cho các môn thì Bộ GD-ĐT chỉ cần đề ra một số quy định ràng buộc. Nếu không phải tính toán các phương án làm SGK của Bộ như hiện nay thì chúng ta sẽ không phải mất tiền vay nước ngoài để làm SGK và tiến độ cũng bảo đảm vì SGK lớp 1 của các nhóm đều đã sẵn sàng.

Dĩ nhiên, đề xuất này cũng chỉ khả thi nếu Quốc hội và Chính phủ cho phép triển khai chủ trương “một số SGK cho mỗi môn học”.

Nếu có thể thay đổi một nội dung trong Nghị quyết 88 của Quốc hội thì theo tôi, đây là nội dung đáng thay đổi nhất. Thay đổi như vậy là vấn đề không dễ, nhưng nếu nhìn thấy tính hệ trọng và tác động lâu dài của một chính sách lớn thì cần phải có quyết tâm giải quyết.

Xin cảm ơn ông!

Phong Cầm (Thực hiện)

Phó Thủ tướng: Cần tách bạch các khâu làm sách giáo khoa

Phó Thủ tướng: Cần tách bạch các khâu làm sách giáo khoa

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nói Bộ GD-ĐT chỉ đạo tập trung biên soạn một bộ sách giáo khoa chính thống tại buổi họp chiều 28/2.

">

Một số sách giáo khoa cho một môn học: Bộ Giáo dục cần rõ ràng và thuyết phục hơn

Ông Thái Trí Hùng, CTO của MoMo cho hay, dù ví von dữ liệu là dầu mỏ hay vàng, kim cương thì quan trọng là dữ liệu phải giúp mình đi chính xác đến đâu. 

Tại Diễn đàn “Thúc đẩy Tiến trình Chuyển đổi số Quốc gia” diễn ra ngày 5/7/2023, ông Thái Trí Hùng, Giám đốc Công nghệ (CTO) của MoMo mang đến bài tham luận với chủ đề “Tư duy dữ liệu trong xây dựng giải pháp”.

Trình bày bài tham luận, ông Thái Trí Hùng cho biết: “Đối với MoMo, dữ liệu hay công nghệ không phải là mục tiêu hướng đến mà nó là công cụ để phục vụ mục tiêu. MoMo dùng dữ liệu để nắm bắt được nhu cầu khách hàng từ trước khi nhu cầu đó diễn ra. Ví dụ khách hàng vừa mở app MoMo và chưa làm gì hết thì chúng tôi đã đoán được khách hàng định làm gì tiếp theo và chuẩn bị tất cả những gì tốt nhất để trải nghiệm của khách hàng trở nên mượt mà. Đó là cách MoMo sử dụng dữ liệu để phục vụ khách hàng của mình".

Theo ông Hùng, niềm tự hào lớn nhất của đội ngũ công nghệ là MoMo là sản phẩm 100% Việt Nam, 100% phục vụ cho người Việt Nam. Mức tăng trưởng của MoMo ghi nhận ở mức 2 con số mỗi năm, và theo đó năng lực công nghệ và đội ngũ công nghệ cũng tăng trưởng tương tự. Hiện nay, đội ngũ Data và AI của MoMo có khoảng 200 người, chiếm gần 1 phần 3 số lượng nhân sự làm công nghệ tại MoMo.

Ông Hùng chia sẻ về mô hình lý tưởng thường thấy để tạo ra giá trị dữ liệu gọi là “bánh xe dữ liệu”. Cụ thể, đầu tiên chúng ta sẽ có dữ liệu. Từ dữ liệu thì chúng ta sẽ phân tích tốt hơn. Từ phân tích tốt hơn sẽ tạo ra sản phẩm tốt hơn. Từ sản phẩm tốt hơn thì có thêm người dùng mới. Từ người dùng mới lại có thêm dữ liệu. Theo ông Hùng, mô hình “bánh xe dữ liệu” chỉ có tác dụng khi quay liên tục và việc có nhiều dữ liệu không đồng nghĩa là kết quả sẽ đúng. 

“Từ góc độ là người lãnh đạo công nghệ, để sử dụng tốt dữ liệu thì phải luôn tỉnh táo, luôn hiểu rằng dữ liệu cung cấp nhiều manh mối nhưng không phải cái nào cũng chính xác. Để thành công trong việc dùng dữ liệu, phải luôn đặt câu hỏi và nghi ngờ với tất cả những dữ liệu chúng ta có”, ông Hùng cho biết.  

Ông Hùng cũng chia sẻ một vấn đề quan trọng là đạo đức về dữ liệu - vấn đề được quan tâm hàng đầu tại MoMo. “Mỗi con người làm dữ liệu ở MoMo phải tin rằng mình không bao giờ dùng dữ liệu đó để làm hại khách hàng của mình, phải bảo vệ dữ liệu đó như là tài sản của công ty, như niềm tin mà khách hàng đang dành cho mình. Để làm được việc đó, MoMo thiết kế một hệ thống bảo vệ gồm nhiều lớp, trong đó gồm có công nghệ, hệ thống giáo dục con người, quy trình chính xác. Chỉ có như vậy mới không phụ lòng tin của khách hàng dành cho MoMo”, ông Hùng nhấn mạnh.

Bên cạnh bài tham luận “Tư duy dữ liệu trong xây dựng giải pháp”, ông Thái Trí Hùng cũng tham gia phiên thảo luận cùng các lãnh đạo đến từ Viện Chiến lược Chuyển đổi số, Viện Đổi mới Sáng tạo, SAP Việt Nam, VieON, Pama. Tại đây, khi được đặt câu hỏi về bài học xương máu của MoMo trong việc tạo ra giá trị từ dữ liệu, ông Hùng cho biết đó là ngay từ đầu phải xác định được mục tiêu của mình khi sử dụng dữ liệu là gì. “Dù ví von dữ liệu là dầu mỏ hay vàng, kim cương thì quan trọng là dữ liệu phải giúp mình đi chính xác đến đâu. Chúng ta phải biết chính xác chúng ta muốn cái gì, theo đuổi mục tiêu nào, và không bao giờ được phép quên chuyện đó, đặc biệt là với đội ngũ làm công nghệ”, ông Hùng cho biết. 

Tại MoMo, tùy vào quy mô phát triển qua từng thời kỳ thì định hướng và giá trị cốt lõi của công ty cũng thay đổi theo. Từ những ngày đầu, MoMo theo đuổi Mobile First (lấy Mobile làm trọng tâm), rồi đến Data First và AI First (lấy dữ liệu và trí tuệ nhân tạo làm trọng tâm). Cho đến hiện tại, khi Customer First (lấy khách hàng làm trọng tâm) đã trở thành một giá trị cốt lõi quan trọng được đặt ra tại MoMo, ông Hùng nhấn mạnh vai trò cuối cùng của dữ liệu vẫn là giúp người dùng hạnh phúc hơn, chuyển đổi số hay chuyển đổi công nghệ đầu tiên phải xuất phát từ con người. “Một công nghệ mà không làm cho người dùng hạnh phúc hơn, đi ngược lại với mục tiêu mình đang theo đuổi, thì đó không còn là một công nghệ tốt nữa”, ông Hùng nói.

Lấy Customer First làm giá trị cốt lõi, MoMo luôn giám sát mức độ hài lòng của khách hàng và luôn truyền thông nội bộ để nhắc nhở tất cả nhân viên về những nguyên tắc hành xử để giữ vững giá trị cốt lõi đó, giữ vững lời hứa đó với khách hàng. Ông Hùng cho biết: “Rất đơn giản để chúng ta tăng doanh số trong một vài chu kỳ nhưng nếu khách hàng của chúng ta không hài lòng thì sau đó, tất cả sẽ đi xuống. Câu chuyện giữ cho khách hàng hài lòng còn quan trọng hơn cả việc tăng doanh số trong một vài chu kỳ ngắn”.

Ông Thái Trí Hùng cũng nhận định, chuyển đổi số cuối cùng vẫn phải là một phần con người cùng một phần máy móc phối hợp với nhau, không có nơi nào mà mình chuyển đổi số thành 100% là số, là máy móc. “MoMo đặt vấn đề là chuyển đổi số không phải điều to tát, mà là chuyện rất đơn giản. Ví dụ làm thế nào để giúp họ (đối tác của MoMo) nói chuyện được với khách hàng của mình, làm thế nào để họ chạy một chương trình khách hàng thân thiết mà không phải bỏ thêm chi phí gì cả”, ông Hùng kết luận.

MoMo hỗ trợ Công an Bắc Giang triệt phá đường dây đánh bạc nghìn tỷ

MoMo hỗ trợ Công an Bắc Giang triệt phá đường dây đánh bạc nghìn tỷ

Ví điện tử MoMo hỗ trợ cơ quan điều tra trong đường dây đánh bạc có tổng giao dịch khoảng 2.000 tỷ đồng.">

Khách hàng vừa mở app MoMo chúng tôi đã đoán được khách hàng định làm gì

友情链接