{keywords} 

Martin Cooper là một kỹ sư người Mỹ, nổi tiếng vì đã phát minh ra chiếc điện thoại di động cầm tay đầu tiên vào năm 1973 khi đang làm việc tại Motorola. Bên cạnh danh xưng "cha đẻ của điện thoại di động", Cooper còn là người đầu tiên trong lịch sử thực hiện một cuộc gọi từ một chiếc điện thoại di động trước công chúng.

Những nội dung tiếp theo mà bạn sắp đọc được là một số đoạn trích từ Chương 13 - "How the Cell Phone Changes Lives" của cuốn sách "Cutting the Cord" do Martin Cooper soạn thảo và vừa được ra mắt thời gian qua.

Vào năm 2001, gần 45% dân số Mỹ sở hữu một chiếc điện thoại di động. Số người sở hữu điện thoại đã tăng gấp đôi so với 4 năm trước đó, và gấp bốn so với 6 năm trước đó nữa. Vào ngày 11/9 năm đó, những kẻ khủng bố đã cướp máy bay và tấn công New York, Washington, và Pennsylvania. Trên ít nhất một trong những chiếc máy bay bị cướp, hành khách đã sử dụng điện thoại di động để liên lạc với gia đình lúc này đang ở dưới mặt đất. Tuy nhiên, tại nhiều nơi, các cột tín hiệu vẫn chưa được lắp đặt, hoặc những cột đã có sẵn thì không đủ khả năng để xử lý số lượng cuộc gọi tăng đột biến như vậy. Nhiều đội phản ứng nhanh và các viên chức chính phủ không thể liên lạc được, kể cả khi sử dụng điện thoại bàn.

Trong ngày kinh hoàng đó, máy nhắn tin qua sóng vô tuyến - gọi ngắn gọn là máy nhắn tin - trở thành con đường để truyền tải thông tin về cuộc tấn công. Dù cho số lượng điện thoại nhiều gấp 3 lần số lượng máy nhắn tin, thiết bị nhỏ nhắn này vẫn được sử dụng rộng rãi để liên hệ và cảnh báo mọi người, bao gồm cả những viên chức hàng đầu của chính phủ Mỹ.

Trong số nhân viên Nhà Trắng đi cùng Tổng thống George W. Bush, "máy nhắn tin của từng người một bắt đầu tắt ngúm" khi thông tin về vụ tấn công lan rộng. Không có chiếc điện thoại nào trên chuyên cơ Air Force One, vốn chở tổng thống bay quanh nước Mỹ trong lúc nội các cố gắng tìm cách đưa ra hành động đúng đắn. Phụ trách báo chí Nhà Trắng có một chiếc máy nhắn tin hai chiều, không phải điện thoại di động, chỉ có thể gửi và nhận một vài tin soạn sẵn. Đoàn tuỳ tùng của tổng thống chỉ có thể cập nhật thông tin về vụ tấn công thông qua tín hiệu TV địa phương khi máy bay bay ngang qua những nơi đó. Bên trong Tháp Bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới, máy nhắn tin là nguồn tin chủ đạo đối với những người đang tìm cách thoát ra ngoài. Những hàng dài người bắt đầu hình thành tại các trạm điện thoại quanh Manhattan.

Những máy nhắn tin đó là hậu duệ của những thiết bị đầu tiên được Motorola giới thiệu tại Mỹ 30 năm trước đó. Mọi người muốn và cần giữ liên lạc với nhau - một cách tiện lợi, với mức giá dễ chịu, tức thời, và trong những tình huống quan trọng phải đủ nhanh. Vào cuối những năm 1960, khi máy nhắn tin mang lại cho chúng ta những ý tưởng sơ khởi về khả năng kết nối tức thời, và điện thoại di động vẫn là một giấc mơ viển vông, tôi đã đưa ra một dự báo nghe có vẻ đậm chất khoa học viễn tưởng. Tôi nói với bất kỳ ai nghe mình, rằng một ngày nào đó, mọi người sẽ được cấp một số điện thoại khi vừa sinh ra. Nếu ai đó gọi và bạn không trả lời, có nghĩa bạn đã chết rồi. Vào ngày 11/9, chúng ta đã được trải nghiệm mặt tối của dự báo này - nếu bạn cố liên hệ với ai đó và không thể thực hiện được, bạn hẳn lo sợ rằng họ không còn trên cõi đời này nữa.

Tôi tin rằng, thậm chí lúc này mới chỉ đầu những năm 1970 thôi, mọi người - đúng, mọi người - sẽ muốn và cần một chiếc điện thoại di động. Những người khác tại Motorola đã tán đồng với dự đoán này bởi lĩnh vực vô tuyến hai chiều mà chúng tôi đang làm đã cho thấy ngay từ đầu rằng rất nhiều doanh nghiệp sẽ hoạt động tốt hơn nhiều lần khi mọi người được kết nối với nhau. Các nhà cung cấp ở Mount Sinai, công nhân viên sân bay, và cảnh sát Chicago đã cho chúng tôi thấy kết nối với nhau sẽ tạo điều kiện để các tổ chức hoạt động như thế nào. Chúng tôi nhớ rằng các bác sỹ từ chối chuyển máy nhắn tin của họ cho chúng tôi để sửa. Những thiết bị nhỏ gọn như máy nhắn tin và điện thoại di động, qua những tình huống sử dụng bình thường và những thảm kịch như ngày 11/9, đã trở thành những người bạn đồng hành mọi lúc, mọi nơi, gắn bó chặt chẽ với con người.

Những trải nghiệm đó cho thấy một nguyên tắc của công nghệ, vốn đã định hình nên tầm nhìn của tôi trong hàng thập kỷ. Bằng chứng về tính hữu dụng của một sản xuất sẽ xuất hiện khi người dùng trở nên quá lệ thuộc vào nó và gắn bó với nó đến nỗi họ sẽ không từ bỏ nó, dù cho bị hư hại hay gặp những tác động tiêu cực. Điện thoại di động đã chứng minh được điều đó rất nhiều lần. Trong một phán quyết của Toà án Tối cao vào năm 2014, thẩm phán John Robert đã viết rằng điện thoại di động "hiện nay quá phổ biến và là một phần không thể thay thế trong đời sống thường ngày, đến mức những vị khách từ Sao Hỏa có thể kết luận rằng chúng là một tính năng quan trọng của giải phẫu học con người".

Điều khiến tôi ngạc nhiên là tốc độ và mức độ phổ biến của điện thoại. Tôi không hề hình dung ra được rằng số người dùng điện thoại di động trên thế giới còn nhiều hơn cả số người sử dụng toilet xả nước nữa.

Chúng ta có xu hướng đánh giá quá cao tác động của công nghệ trong ngắn hạn nhưng lại đánh giá quá thấp tác động dài hạn của nó. Đây được gọi là Luật Amara, đặt theo tên Roy Amara, một nhà khoa học Stanford, đứng đầu Viện Các chuyên gia cố vấn Tương lai trong 20 năm. Điện thoại di động là một ví dụ điển hình. Theo tài liệu của Motorola về chiếc DynaTAC sản xuất cho giới truyền thông vào tháng 4/1973, chúng tôi viết rằng "điện thoại di động được thiết kế để sử dụng ‘trên đường đi', khi một người cách xa văn phòng hay nhà ở, nơi điện thoại truyền thống không có sẵn". Chúng tôi tin rằng phần lớn thời gian, hầu hết mọi người đều "đang trên đường đi". Và ngày nay điều đó thậm chí còn đúng hơn lúc trước.

Sau khi điện thoại di động trở thành một lĩnh vực kinh doanh, đốm lửa mà tôi và nhóm của mình thắp lên không thể thổi bùng thành ngọn lửa lớn trong mắt bộ phận tài chính ở Motorola. Khi chúng tôi chuẩn bị ngân sách phát triển điện thoại di động, Jim Caile, quản lý mảng marketing, cho tôi xem một dự báo về doanh số điện thoại di động. Chúng tôi đồng ý rằng những chiếc điện thoại đầu tiên sẽ được tung ra thị trường vào khoảng giữa đến cuối những năm 1970. Tuy nhiên, số lượng sản phẩm xuất xưởng dự báo lại khiến tôi hoàn toàn không chấp nhận được.

Tôi biết sẽ tốn bao nhiêu chi phí cho việc chế tạo và những tài năng khác cần thiết để phát triển một chiếc điện thoại di động có khả năng đưa vào sản xuất đại trà. Tôi đã làm đủ lâu, và nhiều lần ước tính hụt những chi phí đó, để có thể khá tự tin vào ước tính lần này. Và tôi cũng biết rằng chúng tôi sẽ không bao giờ thuyết phục được lãnh đạo tin vào kế hoạch nếu bán được quá ít điện thoại di động, không đủ để hoàn vốn đầu tư. Mặt khác, những người phản đối, đặc biệt là các quản lý về mảng tài chính, sẽ cười chúng tôi một trận ra trò nếu chúng tôi tỏ ra lạc quan như những gì mình muốn.

Tôi nhìn vào bảng dự báo lần nữa. "Tăng gấp đôi mọi dự báo về doanh số đi" - tôi nói Caile. "Và chờ xem liệu chúng ta có thể thuyết phục được ai không". Ông ấy đã làm điều đó một cách nghiêm túc, và phía quản lý chấp thuận.

Phó chủ tịch Motorola, John F. Mitchell, và chiếc điện thoại vô tuyến cầm tay DynaTAC năm 1973

Chúng tôi không cách quá xa mục tiêu trong bản dự báo doanh số, nhưng đó là bởi hầu hết những chiếc điện thoại di động đời đầu là điện thoại dùng trên xe hơi. Điện thoại di động còn quá đắt đỏ, và không có đủ các cột sóng để tạo ra hệ thống liên lạc ổn định. Đến năm 1990, hiệu suất và kích cỡ điện thoại di động trở nên thực tế hơn, và doanh số tăng lên nhanh chóng. Đến năm 2000, tìm mua một chiếc điện thoại dùng trên xe hơi trở nên rất khó khăn, điện thoại di động đã chiếm lĩnh thị trường. Trong thập niên 2000, sự sụt giảm của số lượng người đăng ký dùng điện thoại bàn bắt đầu diễn ra. Mọi người không hề tin tôi khi tôi đưa ra dự đoán vào những năm 1970 rằng điện thoại bàn có dây, trong một tương lai xa xăm, sẽ trở nên thừa thãi.

Ấy thế nhưng không ai trong số chúng tôi tại Motorola lúc bấy giờ hình dung ra những tính năng như camera trên điện thoại cả. Xét cho cùng, chưa hề có camera kỹ thuật số vào những năm 1973, do đó nó thậm chí chẳng hiện diện trong danh sách những công nghệ khả thi của chúng tôi. Trong thập niên 1960, Motorola trở thành công ty hàng đầu ngành transistor và đã tích hợp chúng vào các thiết bị điện tử tiêu dùng, bao gồm chiếc DynaTAC, do đó chúng tôi đã có ý tưởng rằng để cải thiện hiệu suất, điện thoại di động sẽ cần thêm nhiều transistor hơn nữa. Nhưng chúng tôi chắc chắn không hình dung điện thoại di động sẽ trở thành smartphone, một chiếc máy vi tính đúng nghĩa. Máy tính cá nhân vẫn đang được phát triển vào thời điểm đó, và internet cũng mới chỉ phổ biến mà thôi.

Nhìn chung, mọi dự báo về ứng dụng và độ phổ biến của điện thoại di động đều đã sai.

Năm 1984, tạp chí Fortune dự báo sẽ có 1 triệu người dùng điện thoại đi động tại Mỹ tính đến năm 1989. Con số thực tế là 3,5 triệu. Năm 1994, các nhà tư vấn ước tính đến năm 2004, sẽ có từ 60 - 90 triệu người dùng điện thoại di động toàn cầu. Con số thực tế vào năm 2004 là 182 triệu.

(Theo VnReview, TechRadar) 

 

Điện thoại di động 80 năm trước trông thế nào?

Điện thoại di động 80 năm trước trông thế nào?

Một bộ phim từ những năm 1940 cho thấy cách vận hành, sử dụng điện thoại di động khác xa hiện nay.

" />

Điện thoại di động đã thay đổi cuộc sống ra sao

Thế giới 2025-03-14 00:11:09 9485
{ keywords}
 

Martin Cooper là một kỹ sư người Mỹ,Điệnthoạidiđộngđãthayđổicuộcsốworld cup châu á nổi tiếng vì đã phát minh ra chiếc điện thoại di động cầm tay đầu tiên vào năm 1973 khi đang làm việc tại Motorola. Bên cạnh danh xưng "cha đẻ của điện thoại di động", Cooper còn là người đầu tiên trong lịch sử thực hiện một cuộc gọi từ một chiếc điện thoại di động trước công chúng.

Những nội dung tiếp theo mà bạn sắp đọc được là một số đoạn trích từ Chương 13 - "How the Cell Phone Changes Lives" của cuốn sách "Cutting the Cord" do Martin Cooper soạn thảo và vừa được ra mắt thời gian qua.

Vào năm 2001, gần 45% dân số Mỹ sở hữu một chiếc điện thoại di động. Số người sở hữu điện thoại đã tăng gấp đôi so với 4 năm trước đó, và gấp bốn so với 6 năm trước đó nữa. Vào ngày 11/9 năm đó, những kẻ khủng bố đã cướp máy bay và tấn công New York, Washington, và Pennsylvania. Trên ít nhất một trong những chiếc máy bay bị cướp, hành khách đã sử dụng điện thoại di động để liên lạc với gia đình lúc này đang ở dưới mặt đất. Tuy nhiên, tại nhiều nơi, các cột tín hiệu vẫn chưa được lắp đặt, hoặc những cột đã có sẵn thì không đủ khả năng để xử lý số lượng cuộc gọi tăng đột biến như vậy. Nhiều đội phản ứng nhanh và các viên chức chính phủ không thể liên lạc được, kể cả khi sử dụng điện thoại bàn.

Trong ngày kinh hoàng đó, máy nhắn tin qua sóng vô tuyến - gọi ngắn gọn là máy nhắn tin - trở thành con đường để truyền tải thông tin về cuộc tấn công. Dù cho số lượng điện thoại nhiều gấp 3 lần số lượng máy nhắn tin, thiết bị nhỏ nhắn này vẫn được sử dụng rộng rãi để liên hệ và cảnh báo mọi người, bao gồm cả những viên chức hàng đầu của chính phủ Mỹ.

Trong số nhân viên Nhà Trắng đi cùng Tổng thống George W. Bush, "máy nhắn tin của từng người một bắt đầu tắt ngúm" khi thông tin về vụ tấn công lan rộng. Không có chiếc điện thoại nào trên chuyên cơ Air Force One, vốn chở tổng thống bay quanh nước Mỹ trong lúc nội các cố gắng tìm cách đưa ra hành động đúng đắn. Phụ trách báo chí Nhà Trắng có một chiếc máy nhắn tin hai chiều, không phải điện thoại di động, chỉ có thể gửi và nhận một vài tin soạn sẵn. Đoàn tuỳ tùng của tổng thống chỉ có thể cập nhật thông tin về vụ tấn công thông qua tín hiệu TV địa phương khi máy bay bay ngang qua những nơi đó. Bên trong Tháp Bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới, máy nhắn tin là nguồn tin chủ đạo đối với những người đang tìm cách thoát ra ngoài. Những hàng dài người bắt đầu hình thành tại các trạm điện thoại quanh Manhattan.

Những máy nhắn tin đó là hậu duệ của những thiết bị đầu tiên được Motorola giới thiệu tại Mỹ 30 năm trước đó. Mọi người muốn và cần giữ liên lạc với nhau - một cách tiện lợi, với mức giá dễ chịu, tức thời, và trong những tình huống quan trọng phải đủ nhanh. Vào cuối những năm 1960, khi máy nhắn tin mang lại cho chúng ta những ý tưởng sơ khởi về khả năng kết nối tức thời, và điện thoại di động vẫn là một giấc mơ viển vông, tôi đã đưa ra một dự báo nghe có vẻ đậm chất khoa học viễn tưởng. Tôi nói với bất kỳ ai nghe mình, rằng một ngày nào đó, mọi người sẽ được cấp một số điện thoại khi vừa sinh ra. Nếu ai đó gọi và bạn không trả lời, có nghĩa bạn đã chết rồi. Vào ngày 11/9, chúng ta đã được trải nghiệm mặt tối của dự báo này - nếu bạn cố liên hệ với ai đó và không thể thực hiện được, bạn hẳn lo sợ rằng họ không còn trên cõi đời này nữa.

Tôi tin rằng, thậm chí lúc này mới chỉ đầu những năm 1970 thôi, mọi người - đúng, mọi người - sẽ muốn và cần một chiếc điện thoại di động. Những người khác tại Motorola đã tán đồng với dự đoán này bởi lĩnh vực vô tuyến hai chiều mà chúng tôi đang làm đã cho thấy ngay từ đầu rằng rất nhiều doanh nghiệp sẽ hoạt động tốt hơn nhiều lần khi mọi người được kết nối với nhau. Các nhà cung cấp ở Mount Sinai, công nhân viên sân bay, và cảnh sát Chicago đã cho chúng tôi thấy kết nối với nhau sẽ tạo điều kiện để các tổ chức hoạt động như thế nào. Chúng tôi nhớ rằng các bác sỹ từ chối chuyển máy nhắn tin của họ cho chúng tôi để sửa. Những thiết bị nhỏ gọn như máy nhắn tin và điện thoại di động, qua những tình huống sử dụng bình thường và những thảm kịch như ngày 11/9, đã trở thành những người bạn đồng hành mọi lúc, mọi nơi, gắn bó chặt chẽ với con người.

Những trải nghiệm đó cho thấy một nguyên tắc của công nghệ, vốn đã định hình nên tầm nhìn của tôi trong hàng thập kỷ. Bằng chứng về tính hữu dụng của một sản xuất sẽ xuất hiện khi người dùng trở nên quá lệ thuộc vào nó và gắn bó với nó đến nỗi họ sẽ không từ bỏ nó, dù cho bị hư hại hay gặp những tác động tiêu cực. Điện thoại di động đã chứng minh được điều đó rất nhiều lần. Trong một phán quyết của Toà án Tối cao vào năm 2014, thẩm phán John Robert đã viết rằng điện thoại di động "hiện nay quá phổ biến và là một phần không thể thay thế trong đời sống thường ngày, đến mức những vị khách từ Sao Hỏa có thể kết luận rằng chúng là một tính năng quan trọng của giải phẫu học con người".

Điều khiến tôi ngạc nhiên là tốc độ và mức độ phổ biến của điện thoại. Tôi không hề hình dung ra được rằng số người dùng điện thoại di động trên thế giới còn nhiều hơn cả số người sử dụng toilet xả nước nữa.

Chúng ta có xu hướng đánh giá quá cao tác động của công nghệ trong ngắn hạn nhưng lại đánh giá quá thấp tác động dài hạn của nó. Đây được gọi là Luật Amara, đặt theo tên Roy Amara, một nhà khoa học Stanford, đứng đầu Viện Các chuyên gia cố vấn Tương lai trong 20 năm. Điện thoại di động là một ví dụ điển hình. Theo tài liệu của Motorola về chiếc DynaTAC sản xuất cho giới truyền thông vào tháng 4/1973, chúng tôi viết rằng "điện thoại di động được thiết kế để sử dụng ‘trên đường đi', khi một người cách xa văn phòng hay nhà ở, nơi điện thoại truyền thống không có sẵn". Chúng tôi tin rằng phần lớn thời gian, hầu hết mọi người đều "đang trên đường đi". Và ngày nay điều đó thậm chí còn đúng hơn lúc trước.

Sau khi điện thoại di động trở thành một lĩnh vực kinh doanh, đốm lửa mà tôi và nhóm của mình thắp lên không thể thổi bùng thành ngọn lửa lớn trong mắt bộ phận tài chính ở Motorola. Khi chúng tôi chuẩn bị ngân sách phát triển điện thoại di động, Jim Caile, quản lý mảng marketing, cho tôi xem một dự báo về doanh số điện thoại di động. Chúng tôi đồng ý rằng những chiếc điện thoại đầu tiên sẽ được tung ra thị trường vào khoảng giữa đến cuối những năm 1970. Tuy nhiên, số lượng sản phẩm xuất xưởng dự báo lại khiến tôi hoàn toàn không chấp nhận được.

Tôi biết sẽ tốn bao nhiêu chi phí cho việc chế tạo và những tài năng khác cần thiết để phát triển một chiếc điện thoại di động có khả năng đưa vào sản xuất đại trà. Tôi đã làm đủ lâu, và nhiều lần ước tính hụt những chi phí đó, để có thể khá tự tin vào ước tính lần này. Và tôi cũng biết rằng chúng tôi sẽ không bao giờ thuyết phục được lãnh đạo tin vào kế hoạch nếu bán được quá ít điện thoại di động, không đủ để hoàn vốn đầu tư. Mặt khác, những người phản đối, đặc biệt là các quản lý về mảng tài chính, sẽ cười chúng tôi một trận ra trò nếu chúng tôi tỏ ra lạc quan như những gì mình muốn.

Tôi nhìn vào bảng dự báo lần nữa. "Tăng gấp đôi mọi dự báo về doanh số đi" - tôi nói Caile. "Và chờ xem liệu chúng ta có thể thuyết phục được ai không". Ông ấy đã làm điều đó một cách nghiêm túc, và phía quản lý chấp thuận.

Phó chủ tịch Motorola, John F. Mitchell, và chiếc điện thoại vô tuyến cầm tay DynaTAC năm 1973

Chúng tôi không cách quá xa mục tiêu trong bản dự báo doanh số, nhưng đó là bởi hầu hết những chiếc điện thoại di động đời đầu là điện thoại dùng trên xe hơi. Điện thoại di động còn quá đắt đỏ, và không có đủ các cột sóng để tạo ra hệ thống liên lạc ổn định. Đến năm 1990, hiệu suất và kích cỡ điện thoại di động trở nên thực tế hơn, và doanh số tăng lên nhanh chóng. Đến năm 2000, tìm mua một chiếc điện thoại dùng trên xe hơi trở nên rất khó khăn, điện thoại di động đã chiếm lĩnh thị trường. Trong thập niên 2000, sự sụt giảm của số lượng người đăng ký dùng điện thoại bàn bắt đầu diễn ra. Mọi người không hề tin tôi khi tôi đưa ra dự đoán vào những năm 1970 rằng điện thoại bàn có dây, trong một tương lai xa xăm, sẽ trở nên thừa thãi.

Ấy thế nhưng không ai trong số chúng tôi tại Motorola lúc bấy giờ hình dung ra những tính năng như camera trên điện thoại cả. Xét cho cùng, chưa hề có camera kỹ thuật số vào những năm 1973, do đó nó thậm chí chẳng hiện diện trong danh sách những công nghệ khả thi của chúng tôi. Trong thập niên 1960, Motorola trở thành công ty hàng đầu ngành transistor và đã tích hợp chúng vào các thiết bị điện tử tiêu dùng, bao gồm chiếc DynaTAC, do đó chúng tôi đã có ý tưởng rằng để cải thiện hiệu suất, điện thoại di động sẽ cần thêm nhiều transistor hơn nữa. Nhưng chúng tôi chắc chắn không hình dung điện thoại di động sẽ trở thành smartphone, một chiếc máy vi tính đúng nghĩa. Máy tính cá nhân vẫn đang được phát triển vào thời điểm đó, và internet cũng mới chỉ phổ biến mà thôi.

Nhìn chung, mọi dự báo về ứng dụng và độ phổ biến của điện thoại di động đều đã sai.

Năm 1984, tạp chí Fortune dự báo sẽ có 1 triệu người dùng điện thoại đi động tại Mỹ tính đến năm 1989. Con số thực tế là 3,5 triệu. Năm 1994, các nhà tư vấn ước tính đến năm 2004, sẽ có từ 60 - 90 triệu người dùng điện thoại di động toàn cầu. Con số thực tế vào năm 2004 là 182 triệu.

(Theo VnReview, TechRadar) 

 

Điện thoại di động 80 năm trước trông thế nào?

Điện thoại di động 80 năm trước trông thế nào?

Một bộ phim từ những năm 1940 cho thấy cách vận hành, sử dụng điện thoại di động khác xa hiện nay.

本文地址:http://vip.tour-time.com/html/547f898781.html
版权声明

本文仅代表作者观点,不代表本站立场。
本文系作者授权发表,未经许可,不得转载。

全站热门

Nhận định, soi kèo KF Teuta vs AF Elbasani, 23h00 ngày 11/3: Cú hích tinh thần

{keywords}Bộ TT&TT tổ chức tập huấn về kiểm soát thủ tục hành chính. Ảnh: Trọng Đạt

Tại đây, các đại biểu tham dự sẽ được giới thiệu về phần mềm thống kê, rà soát, đánh giá tính toán chi phí tuân thủ quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh. 

Bên cạnh đó, đại diện Cục Kiểm soát thủ tục hành chính (Văn phòng Chính phủ) sẽ hướng dẫn các thành viên tổ công tác thực hiện Nghị quyết 68 về thao tác thực hành trên phần mềm thống kê, rà soát đánh giá và tính toán chi phí theo đúng như quy định. 

{keywords}
Các đại biểu tham dự sẽ được giới thiệu về phần mềm thống kê, rà soát, đánh giá tính toán chi phí tuân thủ quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh. Ảnh: Trọng Đạt

Nghị quyết 68/NQ-CP là chương trình cải cách có phạm vi bao phủ rộng nhất từ trước đến nay, thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của Chính phủ nhằm thúc đẩy cải cách quy định và tổ chức thực hiện các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh, tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội của đất nước 

Việc tập huấn công tác kiểm soát thủ tục hành chính cho các cán bộ, công chức, viên chức, lãnh đạo các đơn vị là hành động thiết thực nhằm giúp Nghị quyết 68 lan tỏa sâu rộng với mục tiêu là phục vụ người dân, doanh nghiệp.

Trọng Đạt

">

Bộ TT&TT tổ chức tập huấn về kiểm soát thủ tục hành chính

Ảnh: NASA Goddard Space Flight Center/flickr

Vậy, làm thể nào điện thoại có thể xác định và chia sẻ vị trí của nó?

Có một vài cách để làm được điều này. Trong đó, có những cách yêu cầu phải có kết nối với nhà mạng di động.

Kết nối Internet

Những thiết bị di động có kết nối internet đều có địa chỉ IP (Internet Protocol). Địa chỉ IP được cấp bởi nhà cung cấp dịch vụ internet (ISP) và cách xác định địa chỉ IP thì cực kỳ dễ. Bạn cũng có thể tưởng tượng rằng IP giống như số điện thoại di động dành cho internet vậy.

Nếu bạn lo ngại về việc lộ địa chỉ IP, có một số phương pháp bạn có thể dùng để ẩn nó đi, cơ bản nhất là sử dụng mạng riêng ảo VPN hoặc không kết nối điện thoại với mạng Wi-Fi. 

Dù vậy, điện thoại vẫn có thể chia sẻ vị trí của nó nếu bạn bật dữ liệu di động. Điểm khác biệt là thiết bị sẽ sử dụng mạng của nhà mạng di động thay vì ISP và nhà mạng di động sẽ có thể truy cập vào dữ liệu của bạn trong quá trình kết nối.

Dữ liệu GPS

GPS xác định vị trí của thiết bị thông qua các vệ tinh. Do vậy, nó không cần kết nối internet và có thể hoạt động ở hầu hết mọi nơi trên Trái Đất. Vì vậy, dù điện thoại của bạn không kết nối internet thì nó vẫn có thể lấy được thông tin vị trí của bạn.

Dữ liệu GPS đều được sử dụng bởi cả Android Location Services và Apple Location Services. Các ứng dụng bên thứ ba sử dụng API của hai nền tảng trên đều có thể truy cập vào thông tin này khi hoạt động. Bạn có thể từ chối quyền truy cập cho hầu hết các ứng dụng khi cài đặt hoặc trong mục Cài đặt ứng dụng của thiết bị. Ngoài ra, bạn cũng có thể vô hiệu hóa tính năng vị trí của thiết bị.

Nếu bạn tắt tính năng vị trí, nhà cung cấp mạng di động vẫn có thể lấy được thông tin vị trí thiết bị khi có yêu cầu. Có thể nó sẽ có ích trong trường hợp thất lạc thiết bị, bị đánh cắp hoặc khi bạn gọi vào số khẩn cấp.

Lộ lọt không chủ đích

Trong thế giới công nghệ cao, những thứ đơn giản thường dễ bị bỏ sót. Bạn có thể tắt tính năng vị trí của thiết bị nếu muốn. Nhưng hãy lưu ý rằng, mỗi bức ảnh bạn chia sẻ hay mỗi thông tin trên mạng xã hội đều có thể tiết lộ vị trí của bạn.

Dữ liệu vị trí có lợi hay hại?

Một số người dùng sử dụng những biện pháp quyết liệt để bảo vệ thông tin cá nhân. Một số khác thì muốn mọi người biết mình đang ở đâu. Vậy thì việc tiết lộ vị trí là tốt hay xấu?

Dữ liệu vị trí là trợ thủ đắc lực

Cho phép một số ứng dụng truy cập vào vị trí của thiết bị có một số mặt lợi. Trong bài viết cũng đã có nhắc đến như tìm lại điện thoại bị thất lạc hay bị đánh cắp, hoặc có thể giúp các đội phản ứng nhanh hay các đơn vị hỗ trợ triển khai nhanh chóng trước một tình huống khẩn cấp. Ngoài ra, cũng có một số ứng dụng khác cũng nên được sử dụng dữ liệu vị trí.

Google có thể sử dụng vị trí chính xác của bạn để cung cấp thông tin về các địa điểm ưa thích, phương tiện đi lại và thời tiết trong khu vực. Họ cũng tổng hợp dữ liệu vị trí người dùng để có thể dự đoán một số thứ như khu vực tắc đường hay thời gian đến nơi khi sử dụng tính năng chỉ đường.

Nếu bạn muốn chỉ bạn bè hay người thân nắm được vị trí của mình mà không ai khác biết, bạn có thể cân nhắc chia sẻ vị trí trực tiếp cho những người này thông qua cài đặt trong Google Profile hay vì dùng mạng xã hội. Ngoài ra, Snapchat cũng sử dụng bộ lọc địa lý để có thể cung cấp cho người dùng một số tính năng riêng cho từng khu vực giúp người dùng có những bộ ảnh lung linh hơn.

Dữ liệu vị trí là con dao hai lưỡi

Rất nhiều người lo sợ việc lộ dữ liệu vị trí. Nhưng đối với hầu hết chúng ra thì vấn đề này thật sự không đáng để lo ngại.

Đầu tiên là có quá nhiều dữ liệu vị trí được chia sẻ nên khả năng dùng nó để xác định một người là gần như không thể xảy ra. Và thậm chí nếu có, thì dịch vụ vị trí của cả Apple và Goole đều ẩn danh dữ liệu khi tổng hợp thông tin.

Vì vậy, cái bạn nên quan tâm hơn chính là dữ liệu vị trí mà bạn tự nhập vào ứng dụng hoặc ứng dụng được bạn cho phép truy cập vị trí. Không chỉ có độ tin cậy thấp mà khả năng dữ liệu vị trí được các ứng dụng liên kết với thông tin cá nhân của bạn là rất cao và các dữ liệu này không được nhà cung cấp ứng dụng ẩn danh khi tổng hợp thông tin.

Ví dụ với mạng xã hội, nền tảng này cho phép bạn chia sẻ vị trí cho "bạn bè", trong đó bao gồm cả số mà bạn không còn gặp mặt. Một số mạng xã hội còn sử dụng vị trí của người dùng để thực hiện các chiến dịch quảng cáo. Đây là hành vi bị rất nhiều người dùng phản đối.

Hơn nữa, các trang phát nội dung trực tuyến và các dịch vụ cung cấp nội dung số cũng có thể sử dụng giới hạn phạm vi phổ biến cho nội dung của mình thông qua vị trí địa lý của người dùng.

Dữ liệu vị trí vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi

Có cả tin tốt và tin xấu. Tin xấu là bạn không thể thoát khỏi việc bị thu thập dữ liệu vị trí mà không rời xa chiếc điện thoại. Còn tin tốt là bạn không cần phải làm vậy.

Bạn cần chú ý và kiểm soát quyền truy cập vị trí của từng ứng dụng trên thiết bị. Đây là phương pháp bảo vệ hiệu quả hơn nhiều so với việc ngắt kết nối Wi-Fi và dữ liệu di động. Lý do là vì có người thích và cũng có người không thích các dịch vụ hoạt động dựa trên vị trí, như cá nhân hóa quảng cáo chẳng hạn.

Dù nhiều người không mấy quan trọng việc sử dụng và chia sẻ dữ liệu vị trí, nhưng cũng giống như những công nghệ khác, nó vốn dĩ là một con dao hai lưỡi.

Có rất nhiều cách để xác định vị trí của thiết bị di động. Mỗi nhà sản xuất lại áp dụng phương thức khác nhau, sử dụng loại kết nối khác nhau và quy định ứng dụng nào được truy cập vào các kết nối và cả dữ liệu vị trí của thiết bị.

Kết nối internet, dữ liệu di động và GPS là ba phương thức chính và phổ biến nhất để thu thập và chia sẻ vị trí thiết bị. Mặc dù một số kết nối trên có thể vô hiệu hóa thủ công, tuy nhiên một thực tế bạn phải chấp nhận là điện thoại di động của bạn luôn có khả năng chia sẻ thông tin vị trí của nó.

(Theo VnReview, makeuseof.com)

Cảnh giác khi thiết lập chia sẻ định vị tức thời trên điện thoại di động

Cảnh giác khi thiết lập chia sẻ định vị tức thời trên điện thoại di động

Nhiều người dùng tại Việt Nam có thói quen chia sẻ định vị trong các ứng dụng và nền tảng. Hành động này có thể dẫn đến những nguy cơ mất an toàn thông tin trên không gian mạng như thế nào?

">

Làm thế nào điện thoại và ứng dụng biết được vị trí của bạn?

Nhận định, soi kèo Alianza Lima vs Deportes Iquique, 05h00 ngày 12/3: Thắng thêm lần nữa

Truyện Dưới Mái Ngói Đơn Sơ


Trên đầu vị ông chủ này vẫn chảy máu, mất đi năng lực phản kháng, chịu đựng việc bản thân bị kéo lê trên mặt đất.

Cô gái mặc áo khoác denim, quần jean cùng với giày vải, lại thêm khuôn mặt ngây thơ vô hại đậm chất em gái nhà bên, không ai có thể tưởng tưởng nổi, cô gái này vừa quật ngã vài tên cao to, và cũng không ngờ được cô ấy chính là một sát thủ danh tiếng.

"Thật đáng ghét, T-shirt bị dính máu rồi", sau khi ném "ông chủ" vào xe xong, cô vừa kéo góc áo vừa oán trách, "sớm biết trước đã không cùng bọn họ chơi rồi, một chiêu giải quyết luôn."

Trong chớp nháy đóng cửa xe, khuôn mặt vốn dĩ u ám lại rạng rỡ sáng sủa, ngẩng đầu lên, nụ cười tươi sáng, "bỏ đi, hôm nay tâm trạng mình tốt."

Cô gái mang biệt hiệu Cầu Vồng, là một sát thủ danh tiếng, nhưng phong cách hành sự đặc biệt, thường làm việc theo tâm trạng, nên mới bị tổ chức gạch tên.

Và lúc này, vị "ông chủ" nằm trên ghế sau kia chính là nhân vật cấp cao của tổ chức, Cầu Vồng vì để lấy được phần tiền thuộc về mình mà từng nhiều lần lịch sự đề cập nhưng không có kết quả, nên hôm nay mới chọn trộm tiền của tổ chức, lại bắt cóc được vị "sếp" này.

" Cầu Vồng,có gì từ từ nói, mọi việc đều có thể thương lượng." "Ông chủ" ngồi ghế sau mở miệng cầu xin, dù sao thì ngồi lái xe ngồi trước vẫn là một con điên, mạng của bản thân vẫn còn trong tay nó.

Cầu Vồng chẳng để ý đến lời van nài của người đằng sau, lại quăng ngay chai rượu vừa uống hết về phía sau, trực tiếp nện đúng miệng "ông chủ", nở hoa, lập tức môi rách chảy ra vài giọt máu. "Ông chủ" đau đến không biết nên ngậm môi lại hay há miệng ra để gió thổi, dù sao vẫn còn vụn thủy tinh bị vỡ.

Cầu Vồng lái xe trên đường cao tốc, không mục tiêu, không đích đến, chỉ cứ thế lái mà thôi.

Đệch, không có rượu, cả người Cầu Vồng ửng đỏ, lưỡi có chút run run, mơ mơ màng màng tìm lục các túi quanh ghế điều khiển, quả nhiên chỉ còn vài chai rỗng.

Có chút bực mình, Cầu Vồng hung hăng phanh xe lại, "ông chủ" ở ghế sao theo quán tính đụng phải chỗ tựa lưng, vụn vỡ thủy tinh trong miệng va chạm, đâu đến mức không mở nổi miệng.

Trong nháy mắt, phịch các âm thanh vang lên, gần kề nhau, tiếng va chạm, tiếng la hét, tiếng nổ.

Tất cả trong mắt Cầu Vồng đều rất mờ nhạt mơ hồ, ra sức lắc lắc đầu, mới phản ứng lại.

">

Truyện Xuyên Không Thành Phi Tử Thì Làm Gì?

友情链接