 nghề chính thức bổ sung đối tượng học sinh tốt nghiệp THCS nhưng có nguyện vọng học liên thông lên trình độ CĐ. Ông có thể chia sẻ một cách tổng quát về mô hình này cũng như ưu thế của nó so với cách thức phân luồng sau khi đã tốt nghiệp PTTH? </p><table class=)
Ông Đỗ Văn Giang, Phó Vụ trưởng Vụ Đào tạo chính quy, Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp. Ảnh: Đỗ NgaÔng Đỗ Văn Giang: Thực ra “Chương trình 9+” là cách gọi tắt của chương trình được quy định để đào tạo cho đối tượng học sinh tốt nghiệp THCS và có nguyện vọng được giáo dục nghề nghiệp ở các cấp trình độ. Còn nói đến liên thông thì thực ra tính liên thông trong giáo dục nghề nghiệp có từ xa xưa đến nay rồi. Thế nên cũng không hẳn là năm học 2019 - 2020 mới chính thức bắt đầu đâu, mà nó đã có từ những thập kỷ 1980 khi còn chưa có Luật dạy nghề. Lúc đó là đào tạo theo kiểu trung học nghề và các em cũng được học cả phần văn hóa.
Đến thời điểm hiện tại Luật Giáo dục Nghề nghiệp có hiệu lực và Bộ LĐ-TBXH đã đưa ra những văn bản phân định rõ các đối tượng đầu vào để học giáo dục nghề nghiệp, đặc biệt ví dụ như học sinh tốt nghiệp THCS có thể được học trung cấp, nếu như có nhu cầu học liên thông thì các em có thể đăng ký học cả phần văn hóa.
Đồng thời việc Luật Giáo dục sửa đổi năm 2019 sẽ có hiệu lực chính thức từ 1/7/2020 cũng tạo ra lối mở rõ hơn về phần khối lượng kiến thức văn hóa THPT mà người học được học. Người học tốt nghiệp THCS khi tham gia học trung cấp nghề, học trình độ trung cấp sau đó có nhu cầu liên thông thì sẽ được học tiếp chương trình cộng vào mang tính chất tích lũy công nhận để hoàn thành lên chương trình CĐ.
Mô hình này có rất nhiều ưu điểm.
Thứ nhất là tiết kiệm chi phí, thứ 2 là thời gian. Nếu các em chọn phương án là từ THCS lên THPT sau đó mới học trung cấp, học cao đẳng thì thời gian sẽ dài hơn, phải đến 5 - 6 năm các em mới có thể tốt nghiệp THPT và có bằng cao đẳng, học phí sẽ mất nhiều hơn. Nhưng nếu học theo mô hình của giáo dục nghề nghiệp Chương trình 9+ thì các em tốt nghiệp THCS theo học 1 - 2 năm trung cấp theo luật quy định sẽ cùng lúc học cả văn hóa học cả học nghề. Sau đó có thể 1 -2 năm nữa sẽ có bằng CĐ khi các em thi đủ và đảm bảo được khối lượng kiến thức văn hóa THPT theo quy định của Bộ GD&ĐT.
Thứ ba là rút ngắn thời gian tiếp cận việc làm của các em. Bởi trong quá trình học nghề các em đã có thể tiếp cận doanh nghiệp, phong cách làm việc của doanh nghiệp cũng như đã có thể kiếm được việc làm, kiếm được tiền giúp đỡ gia đình khi tham gia các hoạt động cùng doanh nghiệp.
Thứ 4, đặc biệt hơn nữa là với chương trình 9+ các em sẽ được tiếp cận các kỹ năng mềm rất tốt. Trước kia phần kỹ năng mềm trong dạy nghề chưa được chú trọng nhiều, nhưng bây giờ những chương trình về khởi nghiệp, về kỹ năng mềm, về làm việc nhóm, ngoại ngữ v.v... đều được chú trọng và đào tạo.
Ưu điểm thứ 5 là các em có thể thỏa mãn nhu cầu học liên thông lên trình độ cao hơn khi đã đảm bảo các điều kiện theo các quy định, các văn bản pháp luật của Luật Giáo dục Đại học sửa đổi cũng như của Luật Giáo dục Nghề nghiệp.
Nhà báo Phạm Huyền: Qua những phân tích của ông về các ưu điểm có thể thấy Chương trình 9+ rất hấp dẫn. Tiếp sau đây tôi xin được đọc câu hỏi khá dài do một phụ huynh gửi tới:
Hiện nay theo quy định học sinh tốt nghiệp lớp 9 có thể theo học trung cấp nghề với thời gian không quá 2 năm. Học sinh học văn hoá chương trình giáo dục thường xuyên thì mất 3 năm. Quy định để học liên thông là phải có bằng tốt nghiệp THPT hoăc tương đương, hoặc có bằng tốt nghiệp trung cấp và đã hoàn thành chương trình THPT theo quy định của Bộ GD&ĐT.
Tuy nhiên, Bộ GD&ĐT chỉ cho các trung tâm giáo dục thường xuyên đào tạo trong thời gian 3 năm (lớp 10, 11, 12), như vậy các em học xong lớp 9 đi học trung cấp và trung học hệ giáo dục thường xuyên thì trung cấp hoàn thành trước THPT 1 năm. Trường nghề không thể dạy chương trình CĐ ở 1 năm trễ như vậy. Vậy chương trình 9+ hiện vướng mắc ở các văn bản quy định như thế cần phải xử lý ra sao? Câu hỏi này xin ông Giang giải đáp cùng bạn đọc.
Ông Đỗ Văn Giang: Tôi nghĩ đây cũng là một câu hỏi mang tính chất “nút thắt” của thực trạng khi giáo dục nghề nghiệp đẩy mạnh đào tạo theo mô hình kiểu 9+ này.
Hiện nay sự hiểu biết về tầm quan trọng của giáo dục nghề nghiệp, tức là học nghề, đã thay đổi rất nhiều khi Bộ LĐ-TBXH, Tổng cục dạy nghề đã tăng cường công tác tuyên truyền với nhiều hình thức và bản thân học sinh THCS cũng đã ưu tiên học nghề rất nhiều rồi. Đó là tín hiệu lạc quan.
Luật giáo dục đại học cũng đã mở ra, nhưng tôi muốn đi thẳng vào vấn đề đang là điểm nghẽn và mong rằng Bộ GD&ĐT phối hợp chặt chẽ hơn và đồng hành cùng với Bộ LĐ-TBXH để ra được quy định về khối lượng kiến thức văn hóa THPT thay thế cho quy định tại thông tư số 16/2010 đã quá cũ. Mặc dù Bộ GD&ĐT đã có văn bản đồng ý là vẫn cho học chương trình đó, tuy nhiên có thể đến thời điểm này nó không còn phù hợp vì cũng sau 10 năm rồi.
Cũng chia sẻ thêm, thực ra sau khi Luật Giáo dục được sửa đổi thì chúng tôi cũng đã làm việc với Bộ GD&ĐT và hiện nay chúng tôi cũng đã có bản dự thảo về quy định khối lượng kiến thức văn hóa và công nhận khối lượng kiến thức văn hóa theo quy định của Luật Giáo dục mới. Nhưng đến thời điểm này bên Bộ GD&ĐT cũng chưa đưa ra được bản dự thảo cho chúng tôi. Bên chúng tôi cũng đã chủ động đưa ra một bản dự thảo để hai bên cùng tham khảo. Bộ GD&ĐT hứa trong thời gian gần nhất sẽ có được bản dự thảo đó và sửa bản thống nhất để kịp thời đưa ra trong thời điểm tuyển sinh năm nay.
Nhà báo Phạm Huyền: Vâng, rõ ràng đối với Việt Nam thì mô hình này dường như còn khá mới mẻ.
Câu hỏi tiếp theo xin gửi tới hai vị hiệu trưởng. Dưới góc nhìn của hai vị thì mô hình 9+ mới mẻ ra sao so với hệ thống giáo dục nghề nghiệp trước đây?
 |
Ông Khuất Huy Bằng, Hiệu trưởng Trường Trung cấp nghề Tổng hợp Hà Nội. Ảnh: Đỗ Nga |
Ông Khuất Huy Bằng: Với phương pháp đào tạo truyền thống sau khi học hết cấp 2 (hết lớp 9) các em sẽ học 3 năm tại THPT. Sau khi hết 3 năm học THPT thì căn cứ vào học lực, nguyện vọng, sở thích, đam mê và điều kiện xã hội tại thời điểm đó để phụ huynh, học sinh lựa chọn ngành nghề cho con em mình theo học, ví dụ theo học trung cấp, cao đẳng hoặc đại học. Vậy tính tổng thời gian từ khi học hết lớp 9 đến lúc xong bằng đại học, các em sẽ mất từ 6-7 năm.
Do vậy căn cứ vào nhu cầu thực tế của xã hội hiện nay là đang khát lao động, để giải cơn khát này Bộ LĐ-TBXH đã đưa ra mô hình đào tạo mới – Chương trình 9+. Có rất nhiều hướng đi sau khi các em học hết cấp 2. Các em có thể đăng kí vào học tại các trường trung cấp, các trường cao đẳng và tại đó được đào tạo song song hai chương trình, chương trình văn hóa và chương trình nghề.
Ở đây chương trình văn hóa đã được rút gọn để đảm bảo những kiến thức cơ bản nhất cho các em học tập để phục vụ trực tiếp cho nghề của các em. Buổi sáng các em học văn hóa, buổi chiều các em tiếp tục vào học nghề. Vậy là sau khoảng thời gian từ 2-3 năm các em đã có bằng trung cấp và khoảng 4 - 4,5 năm có bằng cao đẳng và đến đại học chỉ khoảng 5 năm.
Vậy các em đã rút ngắn được từ 2-3 năm, và điều này tạo ra lợi thế lớn, bởi ra trường sớm hơn các em có cơ hội kiếm việc làm tốt hơn và giúp cho xã hội phát triển hơn, có kinh tế vững hơn. Đấy là một điều kiện rất là thuận lợi.
Bà Phạm Thị Lan Phương: Với góc nhìn của tôi thì mô hình đào tạo này kế thừa cơ bản những luật trước đây như ông Giang vừa trao đổi. Trường chúng tôi cũng đã đào tạo hệ này từ nhiều năm nay. Các em tốt nghiệp THCS vào học nghề và theo học chương trình giáo dục thường xuyên để khi tốt nghiệp 3 năm là các em có cả bằng trung cấp nghề và bằng văn hóa THPT.
 |
Bà Phạm Thị Lan Phương, Hiệu trưởng Trường cao đẳng Cơ khí nông nghiệp. Ảnh: Đỗ Nga |
Ông Đỗ Văn Giang: Ở đây tôi muốn bổ sung một ý. Có một điều kiện tiên quyết mà Tổng cục dạy nghề đã hướng dẫn là khi theo học những lớp này các em có thể học song song văn hóa và nghề, tuy nhiên các em chỉ được cấp bằng trung cấp khi đã đảm bảo đủ khối lượng kiến thức văn hóa theo quy định tại thông tư mà tôi vừa nói lúc trước của Bộ GD&ĐT. Nghĩa là có bằng trung cấp phải có luôn phần công nhận về phần văn hóa đó theo quy định Bộ GD&ĐT thì mới được liên thông tiếp lên cao đẳng. Điều này có lẽ là các phụ huynh cần chú ý để định hướng con em mình.
Các nước đã thành công, chúng ta cũng có thể thành công
Nhà báo Phạm Huyền: Thưa ông Giang, mô hình 9+ của ta đã học tập và kế thừa ra sao các mô hình thành công của các nước như đào tạo kép tại Đức, hay mô hình KOSEN của Nhật Bản?
Ông Đỗ Văn Giang: Thực tế đó chính là hai đất nước đào tạo theo mô hình học sinh được phân luồng từ THCS có hiệu quả nhất hiện nay. Đào tạo kép của Đức có từ những năm xa xưa lắm rồi, còn ở Nhật thì KOSEN bắt đầu từ năm 1961. Bản chất KOSEN của Nhật Bản là đào tạo tinh hoa và cuối cùng các em đạt được đích là có thể trở thành kỹ sư thực hành và ký sư ứng dụng hoặc kỹ sư nghiên cứu và học lên nữa, ở Đức cũng vậy.
Mặt khác, ở Đức có cái hay là doanh nghiệp trả tiền luôn trong thời gian các em tham gia lao động. Hiện ở Nhật cũng như vậy, vừa học tập vừa làm việc cũng được trả lương cho phần sản phẩm của mình.
Còn ở Việt Nam khi thấy các mô hình này hiệu quả chúng ta đã nắm bắt học tập theo. Mô hình này rất phù hợp với Việt Nam trong bối cảnh chúng ta cũng đang cần nhiều nhân lực có kỹ năng nghề. Xu thế thế giới người ta đã nghiên cứu từ những năm xa xưa và đến gần đây nhất là UNESCO trong giai đoạn nghiên cứu để phát triển giáo dục nghề nghiệp từ năm 2016 - 2021 đã đánh giá 1 trong 8 yếu tố lớn chính là kỹ năng nghề và đó chính là một loại tiền tệ toàn cầu. Như vậy nếu chúng ta đẩy mạnh được phương diện này để các em từ nhỏ đã có được các kỹ năng nghề rồi tiếp tục tiến lên thì tự nhiên chúng ta sẽ có một đội ngũ rất mạnh.
 |
Từ trái qua phải: Ông Khuất Huy Bằng, nhà báo Phạm Huyền, ông Đỗ Văn Giang, bà Phạm Thị Lan Phương |
Nhà báo Phạm Huyền: Một câu hỏi xin gửi tới các thầy cô, các vị nhận thấy ngành nghề nào phù hợp với hình thức đào tạo này và thực tế triển khai ở trường các vị có những khó khăn gì cần tháo gỡ, kinh nghiệm nào có thể chia sẻ?
Ông Khuất Huy Bằng: Trường Trung cấp nghề tổng hợp Hà Nội chúng tôi đã đào tạo hai khối. Thứ nhất là khối thủ công mỹ nghệ, chúng tôi là trường duy nhất của thành phố Hà Nội đào tạo về các nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống, duy trì bảo tồn và phát triển các nghề truyền thống của thủ đô và cả nước. Khối thứ hai là khối công nghiệp đào tạo các nghề như điện, hàn, tin… cung cấp nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp phía Tây của thành phố Hà Nội. Tôi thấy đối tượng để hợp mô hình 9+ rất đa dạng, có thể là với tất cả các ngành nghề.
Qua quá trình tuyển sinh, chúng tôi nhận thấy có những em học văn hóa chưa chú tâm và không mấy đam mê nhưng khi học về điện, về mỹ thuật… các em lại làm rất tốt. Đích cuối cùng của người lao động là ra trường có một tay nghề kỹ thuật tốt, trên cơ sở đã được lĩnh hội những kiến thức về văn hóa phù hợp để đáp ứng được nhu cầu thực tế của doanh nghiệp.
Thứ hai, về khó khăn tháo gỡ thì ở Việt Nam có một đặc thù là sính bằng cấp. Trong Chương trình 9+, khi các em hết lớp 9 sẽ vào các trường trung cấp, được đào tạo một lượng kiến thức văn hóa đủ để các em tiếp tục học nghề ở các trình độ trung cấp, cao đẳng và đại học thì các em chỉ được cấp một giấy chứng nhận hoàn thành chương trình văn hóa đó để được tiếp tục học lên cao hơn. Về mặt này phụ huynh vẫn còn khá băn khoăn là muốn sẽ có một bằng tốt nghiệp cấp 3 (ngày xưa gọi là bằng tú tài) sau đó mới tính đến học cao đẳng, đại học.
Để giải quyết được bài toán này chúng ta cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm giúp người dân hiểu rõ được lợi ích của chương trình 9+. Bởi vì các nước phát triển như Đức, Nhật Bản đã ứng dụng mô hình này rất thành công, chắc chắn Việt Nam cũng sẽ thành công.
Nhà báo Phạm Huyền: Đầu tháng 5 này VietNamNet cũng mới tổ chức một chương trình tọa đàm về giáo dục nghề nghiệp. Trong các khách mời có một học viên của của một học viện đào đào tạo. Bạn ấy chia sẻ rằng khi quyết định không học đại học cũng suy nghĩ nhiều, nhưng có nhiều thứ đôi khi phải căn cứ vào thực lực học tập, nhu cầu của bản thân cũng như hoàn cảnh gia đình. Tôi nghĩ tâm sự đó có phần tương đồng với những điều mà thầy Bằng vừa nói.
Tiếp theo xin cô Phương chia sẻ về thực tế tại trường Cao đẳng cơ khí nông nghiệp nơi cô làm hiệu trưởng?
Bà Phạm Thị Lan Phương: Trường chúng tôi hàng năm tuyển sinh đối tượng 9+ tương đối nhiều, từ 500 - 650 các em tốt nghiệp THCS để vào học nghề. Giống như thầy Bằng chia sẻ, nhiều khi phụ huynh bắt con em mình là phải học hết cấp 3 để có bằng cấp, thế nhưng nhiều em không muốn học văn hóa theo kiểu hàn lâm mà lại yêu thích các môn học hoặc các nghề như tin học, điện, mỹ thuật, bán hàng trong siêu thị, kế toán… thì các em có thể tìm hiểu để sớm tiếp cận nghề nghiệp đó.
Hiện nay các em ở lứa tuổi tốt nghiệp THCS có rất nhiều ngành nghề phù hợp. Như trường chúng tôi đào tạo hơn 20 ngành nghề đều có học sinh đăng ký và năm nào chúng tôi cũng đủ chỉ tiêu đào tạo.
VietNamNet thực hiện
(Còn tiếp)
" alt="Học nghề Chương trình 9+: Giải ‘cơn khát’ nguồn nhân lực vững kỹ năng nghề"/>
Học nghề Chương trình 9+: Giải ‘cơn khát’ nguồn nhân lực vững kỹ năng nghề

Bàn tính được nhắc đến trong cuốn “Bút toán chỉ nam”. Ảnh: Một bức tranh khắc gỗ lấy từ cuốn “Margarita Philosophica” của Gregor Reisch xuất bản tại Freiburg năm 1503 miêu tả một cuộc thi toán giữa nhà toán học Pythagoras dùng một dạng bàn tính và nhà toán học, triết học Boethieus dùng chữ số Ả rập mới. Nguồn: Wikipedia.Trong đó, cuốn Toán pháp đại thành mà Lương Thế Vinh (1441 -1496?) được coi là tác giả, được coi là cổ nhất. Những cuốn sách khác đã được biên soạn vào thế kỷ thứ 19 hoặc thậm chí vào đầu thế kỷ XX. Những cuốn sách còn lại không được nhắc tới trong chương Thư mục của Đại Việt thông sử in năm 1749 của nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784?), và do đó có thể tin rằng tất cả các sách còn lại được biên soạn không sớm hơn cuối thế kỷ thứ 18.
Nội dung toán học của tất cả những sách này tương tự như các sách toán học Trung Hoa trước thời gian mà các phương pháp toán học châu Âu được các giáo sĩ Dòng Tên giới thiệu ở Trung Hoa vào đầu thế kỷ 17.
1. Bút toán chỉ nam. Tác giả Nguyễn Cẩn và được Kiều Oánh Mậu (1854-1912) hiệu đính, hiện còn hai bản in năm 1909.
Cuốn sách giải thích phương pháp tính toán phương Tây (các nhà ứng dụng toán học Việt Nam truyền thống sử dụng công cụ tính toán là que tính và bàn tính để thực hiện các tính toán số học), nhưng thực ra nó bao gồm một loạt các chủ đề khá rộng đặc trưng của Toán học Trung Hoa và Toán học Việt Nam truyền thống.
2. Chỉ minh lập thành toán pháp. Cuốn sách này do Phan Huy Khuông viết năm 1820
Cuốn sách mở đầu bằng một hình vẽ bàn tính tái tạo chính xác hình ảnh có trong cuốn sách Toán pháp thống tông của nhà toán học Trung Hoa Trình Đại Vị. Tiếp theo là bảng các lũy thừa của 10, đơn vị tiền, đơn vị đo độ dài, khối lượng và thể tích. Cuốn sách có một “đề thi giả định” với lời giải và các giải thích.
3. Cửu chương lập thành tính pháp. Đây là cuốn sách toán in của Việt Nam sớm nhất hiện tồn.
Cuốn sách tương đối mỏng được viết một phần bằng chữ Nôm và một phần bằng chữ Trung Hoa truyền thống. Cuốn sách được cho là do Phạm Hữu Chung, tên chữ là Phúc, viết.
 |
Bìa cuốn sách Cửu chương lập thành tính pháp trong thư viện Hán Nôm (Kí hiệu: AB 53) |
Cuốn sách không được chia thành các chương và chứa các mục ngắn về các chủ đề khác nhau như bảng nhân, tính diện tích hình phẳng, phân bổ tỷ lệ và các phép toán với phân số.
Cuốn sách có các bài toán được trình bày dưới dạng truyền thống: Bài toán - Đáp số - Lời giải.
4. Cửu chương lập thành toán pháp. Vẫn còn chưa rõ tác giả và thời gian biên soạn.
Hiện tại tồn một bản viết tay năm 1899 và được lưu giữ trong Thư viện Quốc gia Việt Nam (Hà Nội). Cuốn sách giới thiệu tên của các “số lớn”, bảng nhân và tính diện tích các hình chữ nhật và hình cong.
5. Cửu chương toán pháp tên khác: Cửu chương toán pháp lập thành. Trong Danh mục của thư viện Hán-Nôm có liệt kê hai bản viết tay của tác phẩm này ghi năm 1882.
Tác phẩm bắt đầu với đề mục “Nam toán”, (toán Việt Nam) với các giải thích về các phép toán số học, bảng tên các số lớn lũy thừa của 10, và bảng nhân 9x9. Mục tiếp theo là mục “lịch sử” viết bằng chữ Nôm chứa những giải thích về các phép toán cơ bản và lịch sử có tính huyền thoại của nguồn gốc toán học Việt Nam bắt nguồn từ toán học Trung Hoa.
Các mục tiếp theo mô tả dưới dạng thơ các phương pháp toán học khác nhau, như khai căn bậc hai, đưa về mẫu số chung, các tính toán cần thiết trong đổi đơn vị đo và đơn vị tiền tệ, tính diện tích các hình phẳng, phân bổ đơn giản và phân bổ có trọng. Phần tiếp theo chứa một lượng lớn các bài toán khác nhau, trong đó có một số bài toán giải hệ phương trình, thí dụ, bài toán về số các con thỏ và con gà có tổng cộng 36 đầu và 100 chân.
6. Đại thành toán học chỉ minh. Tác giả cuốn sách là Phạm Gia Kỷ, một quan chức nhà nước (không biết năm sinh năm mất), và được Tư nghiệp Quốc Tử Giám Phạm Gia Chuyên (sinh năm 1791, đỗ tiến sĩ năm 1832) hiệu đính.
Cuốn sách lưu giữ trong thư viện Hán Nôm được viết tay cẩn thận không có bìa, tuy nhiên tên cuốn sách và tên người biên soạn ở ngay trang đầu của sách. Năm biên soạn không được chỉ rõ.
Cuốn sách chứa 20 mục nhỏ, một số mục khớp với cuốn sách kinh điển Trung Hoa Cửu chương toán thuật. Nhưng một số phần khác hé lộ phần nào sự khác biệt.
7. Đại thành toán pháp. Trang bìa của bản viết tay của cuốn sách được giữ trong thư viện Hán Nôm (Hà Nội) bị mất, và tên Cửu chương toán pháp xuất hiện ở trang thứ hai liên quan đến bảng nhân, do đó khó có thể coi là tên của cuốn sách.
Một tên khác, Đại thành toán pháp, xuất hiện ở trang 5a của bản viết tay, nhưng vẫn chưa rõ đây có phải là tên gốc của cuốn sách hay không.
Được viết bằng chữ Hán nhưng có một số đoạn viết bằng chữ Nôm giải thích một số qui tắc, cuốn sách không được chia thành các chương và có các mô tả về các phép toán số học, các đơn vị đo, và một số các bài toán tính diện tích các hình phẳng, phân bổ đơn và phân bổ có lý, tính thuế ruộng, đổi tiền, qui tắc khai căn bậc hai và bậc ba không có trong cuốn sách.
8 và 9. Lập thành toán pháp. Bản viết tay chữ Hán không có ngày tháng với tên như trên có trong thư viện Hán Nôm.
Bản này chứa phần nhập đề truyền thống về các phép toán số học và bảng nhân, sau đó là một mục dài dành cho tính toán diện tích các hình phẳng kèm theo một số hình vẽ. Phần còn lại là các bài toán dạng khác nhau.
10. Thống tông toán pháp. Bản viết tay Thống tông toán pháp không rõ thời gian biên soạn của tác giả Tạ Hữu Thường (không rõ năm sinh) được lưu giữ trong thư viện Quốc gia Hà Nội.
 |
Trang 75 của Thống tông toán pháp |
Tên cuốn sách ám chỉ rõ ràng đến cuốn Toán pháp thống tông (1592) của Trình Đại Vị. Tuy nhiên, tác giả Việt Nam đã cải biên một cách đáng kể các phần trong bản gốc Trung Hoa và thêm vào một số lớn các bài toán không tìm thấy trong bản gốc, chuyển hóa các đơn vị đo Trung Hoa sang các đơn vị đo Việt Nam, và trình bày các giải thích của mình bằng chữ Nôm.
11. Toán điền trừ cửu pháp. Bản viết tay không rõ tác giả và ngày tháng được lưu giữ trong Thư viện Hán Nôm.
Như tên của cuốn sách, tác phẩm này trình bày cách tính diện tích các hình phẳng. Văn bản được viết bằng chữ Hán, nhưng chứa các bình luận bằng chữ Nôm.
12. Toán học cách trí. Trang đầu của bản viết tay trong thư viện Hán Nôm bị mất và cuốn sách được ghi trong Danh mục Tran and Gros (1993) với tên không chính xác là Toán pháp.
Nhưng tên thật của cuốn sách này được nhắc lại ở đầu mỗi chương là Toán học cách trí Hoàng Phong Dụ gia thư chính bổn. Tên người biên soạn cuốn sách chưa rõ.
Theo bảng Mục lục, cuốn sách lúc đầu có bốn Chương và một Phụ lục nói về những vấn đề liên quan đến xây dựng.
13. Toán học để uẩn. Vì (các) trang đầu tiên của cuốn sách này bị mất nên không rõ tên tác giả.
Năm biên soạn không rõ, nhưng vì tên của triều đại vua Gia Long (1802-1820) được nhắc tới trong bản thảo, nên có thể giả thiết rằng cuốn sách được biên soạn không sớm hơn 1802.
Cuốn sách chứa 6 chương về các vấn đề sau: các phép toán số học, tính diện tích các hình phẳng, khai căn bậc hai và bậc ba, trình bày sơ lược các phương pháp tương ứng với phân loại trong cuốn Cửu chương của Trung Hoa cổ điển. Có các bài toán về xây dựng và lí thuyết toán học của nhạc.
14. Toán học tâm pháp. Trang đầu tiên của cuốn sách này trong thư viện Hán Nôm bị mất nên tên của cuốn sách này được ghi dựa trên lời nói đầu do Hoàng Phong Dụ viết vào năm 1850.
Bảng mục lục liệt kê 5 chương: các phép toán với các số, tính diện tích hình phẳng, khai căn bậc hai và bậc ba, tính toán liên quan đến xây dựng, và tính toán liên quan đến thuế đất.
15. Toán pháp. Tên chính xác của cuốn sách chưa rõ.
Tên Toán pháp được người chép hoặc thủ thư đặt cho cuốn sách với các trang đầu bị mất dựa trên nội dung của nó. Tác giả và năm biên soạn cũng không được biết.
Cuốn sách không được chia thành các chương, chứa hơn 250 bài toán dành cho các vấn đề như tính diện tích, ứng dụng của tam giác vuông, khai căn bậc hai và bậc ba, và các vấn đề khác.
16. Toán pháp đại thành. Năm biên soạn và tên của tác giả không được rõ.
Cuốn sách cùng tên đã được gán cho tác giả là Lương Thế Vinh (1441-1496?), một quan chức thời Lê (1428-1789), nhưng tác giả và năm biên soạn thực sự của cuốn sách hiện có trong thư viện Hán Nôm không được rõ, và một số phần của cuốn sách bị nghi ngờ là khó có thể đã được biên soạn vào thế kỉ thứ 15.
Các bài toán được tìm thấy trong tác phẩm liên quan tới các vấn đề phổ biến trong các cuốn sách Trung Hoa cổ. Cuốn sách cũng chứa một mục lớn và tương đối độc lập liên quan đến thuế ruộng.
Trích lược từ Tạp chí Tia sáng/ Tạ Duy Phương dịch

Nhà toán học người Việt đạt giải thưởng toán học danh giá nhất châu Âu
- Hiệp hội toán học châu Âu vừa thông báo danh sách 10 nhà toán học nhận được giải thưởng của năm nay, trong đó có GS Phan Thành Nam (hiện là GS tại ĐH Ludwig-Maximlians, Đức; cựu sinh viên ĐHQG TP.HCM).
" alt="Sách toán Việt Nam hiện tồn"/>
Sách toán Việt Nam hiện tồn