PV: Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đang diễn ra rất sôi động trên toàn cầu và cả ở Việt Nam. Theo nhiều ý kiến, trong CMCN 4.0 thì cộng đồng các DTTS dễ bị bỏ lại phía sau nhất. Ông có suy nghĩ gì về những ý kiến này?
ĐBQH Bế Trung Anh: Tôi không nghĩ vậy. CMCN 4.0 chính là cơ hội để các DTTS không bị bỏ lại phía sau. Bill Gates nói một câu rất hay đại ý Internet là công nghệ rẻ nhất khiến cho mọi người có thể bình đẳng với nhau về mặt tiếp cận thông tin. Vì thế, tôi cho rằng bà con người DTTS và đồng bào sống ở vùng sâu vùng xa cần phải làm và được làm triệt để hoá các công việc của mình trên nền tảng 4.0, tận dụng mọi thời cơ tối đa để không bị bỏ lại phía sau.
PV: Qua thực tế mà chúng tôi chứng kiến ở vùng cao, đặc biệt là những nơi có đông khách du lịch nước ngoài, trẻ em người DTTS nói tiếng Anh rất thạo. Ông nghĩ gì về thực tế này?
ĐBQH Bế Trung Anh:Bà con nói thạo tiếng Anh, điều đó chứng tỏ ngoại ngữ cũng chỉ là ngôn ngữ bình thường, nếu cần để mưu sinh thì việc sử dụng nó không phải khó khăn, người DTTS nếu có điều kiện, họ cũng có thể làm tốt. Mưu sinh là bản năng của bất cứ ai. Người DTTS ở Sa Pa đều nhận ra một chuyện là cứ nói được tiếng Anh thì kiếm tiền dễ hơn. Vì thế ở đây, người ta đã lựa chọn công cụ kiếm tiền một cách phù hợp để ít nhất đảm bảo thu nhập, đảm bảo cuộc sống cho chính họ.
Liệu đằng sau câu hỏi này của nhà báo có phải câu hỏi là làm sao phải bảo tồn những văn hoá tốt đẹp của các DTTS, trong đó có ngôn ngữ, chữ viết? Trong suy nghĩ của nhiều người, người DTTS sử dụng tiếng Anh liệu có ảnh hưởng đến bảo tồn bản sắc hay không? Câu trả lời là “không”. Tuy nhiên, để bảo tồn những văn hoá đặc trưng này có nhiều cách, và thậm chí nhiều quan điểm. Nhóm DTTS đủ đông thì bản sắc của họ có thể tự bảo tồn mà không cần có những tác động tích cực từ bên ngoài. Còn đồng bào nói chung vẫn phải hướng đến cuộc sống hàng ngày của họ. Vì thế, chúng ta cần phải rất rõ ràng về mục tiêu cụ thể của chính sách đào tạo tiếng dân tộc ở vùng DTTS.
PV: Vậy xin ông có thể nói về yếu tố công nghệ thông tin với các DTTS, nhất là vấn đề phải có font chữ và bộ gõ tiếng dân tộc?
ĐBQH Bế Trung Anh: Cái đó thì tôi rất thống nhất với mối quan tâm của nhà báo. Một số dân tộc thiểu số có chữ viết cần phải có bộ gõ và font chữ riêng. Trên thực tế, ngôn ngữ các DTTS đang bị mai một đi rất nhiều. Vì thế, phải sử dụng công nghệ thông tin để lưu trữ và phổ cập. Vậy nếu chúng ta làm được việc số hoá ngôn ngữ DTTS trong cả tiếng nói và chữ viết sẽ là điều rất tốt.
Thực tế, nhiều đồng bào mặc dù không có chữ viết nhưng họ vẫn dùng ngôn ngữ của chính dân tộc mình để giao lưu và trao đổi thông tin. Thế nên, font chữ, bộ gõ, rồi phần mềm chuyển đổi từ văn bản trở thành tiếng nói và ngược lại là những sản phẩm rất cần để phổ cập tri thức và tuyên truyền các chính sách của Đảng và Nhà nước đến với các DTTS.
PV: Cộng đồng các trí thức DTTS ở Việt Nam cũng rất đông đảo với không ít người thành đạt trên nhiều phương diện. Ông có kỳ vọng gì về họ cho đất nước nói chung và cho chính đồng bào của họ nói riêng?
ĐBQH Bế Trung Anh: Tôi cho rằng bất kể một DTTS nào cũng đều có tầng lớp trí thức riêng. Và theo các con số thống kê thì dân tộc Chăm có tỷ lệ trí thức trong cộng đồng của họ còn cao nhất trong cả nước. Điều quan trọng nhất là chính cộng đồng trí thức này phải hoạt động có tổ chức với tôn chỉ, mục đích rõ ràng. Người lãnh đạo tổ chức này có thể là những người con DTTS ưu tú, thành đạt nói trên. Họ là những tấm gương điển hình, có tác động tích cực lan tỏa trong cộng đồng dân tộc của họ, để nhân rộng, phát triển lớn mạnh hơn nữa về số lượng, chất lượng đội ngũ trí thức. Các nhóm trí thức DTTS này là những bông hoa muôn sắc màu, đóng góp vào rừng hoa rực rỡ của đội ngũ trí thức cả nước.
Nhân đây, tôi cũng muốn bàn thêm một ý mà nhà báo nêu. Tôi băn khoăn câu “bị bỏ lại phía sau”? Cùng với nghĩa này, chúng ta vẫn nói nhiều đến câu chuyện là miền núi phải tiến kịp miền xuôi. Tôi cho rằng, khái niệm này cần phải hiểu theo một nghĩa khác, không chỉ là câu chuyện kinh tế. Bởi vì miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS luôn có những giá trị riêng của nó. Họ có quyền tự hào về những giá trị mặc định của họ.
Bản sắc tộc người là đặc trưng riêng của mỗi dân tộc, không thể học hay bắt chước, mà thấm đượm từ nhiều đời. Thực tế thấy rằng, những người dân thành thị càng công nghiệp hoá, càng 4.0 thì càng muốn ra khỏi thành phố, về nông thôn để hòa mình vào thiên nhiên thoáng đãng, tận hưởng khám phá văn hóa phong phú của các DTTS. Và đó chính là câu chuyện thành phố khác biệt với vùng đồng bào DTTS. Vì thế, việc so sánh này có vẻ giống so sánh mét và kilogam.
PV: Xin cám ơn ông!
Ông Hoàng Ngọc Vinh cho biết: Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân Bộ GD-ĐT vừa trình Chính phủ không phải là điều kiện cần và đủ để giải quyết bài toán phân luồng mà chúng ta đặt ra lâu nay nhưng chưa giải quyết hiệu quả.
Có thể xem cơ cấu hệ thống là một trong các điều kiện cần thiết, quan trọng để hình thành các “luồng" cho học sinh (HS) theo nhu cầu học tập suốt đời, năng lực, điều kiện bản thân để hoàn thiện trình độ học vấn, tay nghề với hy vọng cải thiện cơ hội việc làm và có thu nhập.
![]() |
Ông Hoàng Ngọc Vinh |
Nếu nói phân luồng theo thị trường lao động thì theo UNESCO trong tài liệu phân loại các tiêu chuẩn quốc tế về giáo dục (ISCED 2011) thì chỉ có một nhánh phân luồng sớm ra thị trường lao động mà không rõ là phân luồng theo nhóm kỹ năng nào thị trường lao động cần, do không thể dự báo được nhu cầu chính xác và do bản chất thay đổi, biến động của thị trường lao động.
Vì thế đòi hỏi cơ cấu hệ thống giáo dục vốn ổn định giúp phân luồng theo thị trường lao động luôn biến động sẽ không làm được.
Kinh nghiệm cho hay, ở địa phương nào cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội vào cuộc cùng với sự năng động của cán bộ lãnh đạo nhà trường và đội ngũ giáo viên, có sự hỗ trợ tích cực của doanh nghiệp, phối hợp giữa cơ sở giáo dục phổ thông và đào tạo nghề...thì ở đó sự phân luồng diễn ra khá tốt.
Việt Nam đã tham khảo kinh nghiệm của thế giới như thế nào trong thiết kế thời gian đào tạo đối với học sinh từ tiểu học lên THPT?
- Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam cũng tham khảo nhiều quốc gia trên thế giới có nền giáo dục tiên tiến và đã thể hiện ở cơ cấu hệ thống.
Nhưng chúng ta cần nhìn rõ hơn yếu tố thị trường lao động cũng như cấu trúc, điều kiện của nền kinh tế, mối quan hệ giữa ngành kinh tế với GD-ĐT, cũng như các chính sách phát triển bền vững đất nước ảnh hưởng đến chính sách GD-ĐT.
Chúng ta muốn làm như các nước tiên tiến nhưng chịu ràng buộc ở điều kiện văn hóa, tài chính cho giáo dục.
Lấy ví dụ ở 27 quốc gia thuộc Liên minh châu Âu, chi phí trung bình một năm cho một người học nghề ban đầu năm 2006 lên đến 6.985 EUR. Đến năm 2009 con số này là 8.098 EUR, liệu chúng ta có thể theo được các quốc gia đó không với điều kiện tài chính cho giáo dục như hiện nay?
Chính một số chuyên gia Ngân hàng thế giới khuyến cáo các quốc gia đông dân khi việc làm thiếu và chưa dự báo tốt nhu cầu thị trường lao động, thì các chính phủ nên tập trung giáo dục phổ thông có chất lượng để tạo nền tảng cho người lao động tương lai có năng lực học tập suốt đời, dễ đào tạo khi thị trường lao động thay đổi.
Việc tuyển dụng hàng chục ngàn lao động hầu hết tốt nghiệp THPT được đào tạo kỹ năng làm việc trong doanh nghiệp high-tech thuộc Công ty Điện tử Samsung có thể xem là ví dụ để góp phần hình thành chính sách phân luồng.
Một điểm lưu ý là công tác phân luồng nếu chỉ chú ý đến các mục tiêu bằng cấp dựa theo cơ cấu hệ thống giáo dục và coi cơ cấu hệ thống là điều kiện cần và đủ cho việc phân luồng thì chúng ta sẽ lặp lại "vết xe đổ" trước đây.Vì thế, Bộ GD-ĐT luôn quan niệm phân luồng vì việc làm (hình thành năng lực nghề nghiệp) và vì thu nhập của người lao động thì khi đó hệ thống của chúng ta sẽ mở hơn - nghĩa là phải đào tạo hướng đến trình độ bằng cấp và đào tạo kỹ năng.
Với phương án này, Bộ sẽ có bước đi tiếp theo như thế nào để đảm bảo phân luồng thành công?
- Với tư cách là cơ quan có trách nhiệm tham mưu cho Đảng và nhà nước về chính sách, chiến lược phát triển giáo dục, và qua kinh nghiệm thực tế trong, ngoài nước, Bộ đã phân tích tất cả các yếu tố, nguyên nhân và rút ra những bài học về công tác phân luồng.
Định hướng đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục có một phương châm chỉ đạo xuyên suốt là hình thành năng lực cho người học, tiếp cận theo kết quả hình thành năng lực ở đầu ra của quá trình.
Vì thế giáo dục cơ bản 9 năm sẽ giúp cho người học có được kiến thức, kỹ năng nền tảng để đi theo những con đường học tập và lao động khác nhau. Tất nhiên, cá biệt vẫn có những HS năng khiếu sau tiểu học đã vào các trường năng khiếu nghệ thuật như hiện nay vừa học văn hóa vừa học các kỹ năng đáp ứng nhu cầu và phát triển tiềm năng của các em.
Nhưng, nếu chỉ mình Bộ GD-ĐT sẽ không làm nổi công tác phân luồng nếu không có sự vào cuộc của các cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương, các Bộ ngành, các doanh nghiệp và các tổ chức chính trị xã hội cũng như toàn xã hội.
Chúng ta không thể giải quyết bài toán phân luồng thành công với nhiều ẩn số bằng công cụ giản đơn được. Cơ cấu hệ thống giáo dục chỉ nên xem là một trong những điều kiện cần thiết để đóng góp vào quá trình phân luồng và học suốt đời cho người học.
Để thành công còn rất nhiều yếu tố thiết yếu khác từ điều kiện kinh tế, tài chính đến thay đổi nhận thức của xã hội với học nghề, sự vào cuộc quyết liệt của hệ thống và sự tham gia của các doanh nghiệp đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa và một thế giới việc làm đầy biến động.
Việc rút ngắn thời gian đào tạo đại học từ 4-6 năm xuống 3-4 năm dựa trên cơ sở nào, thưa ông?
- Việc đề xuất rút ngắn thời gian đào tạo là hợp với xu thế chung của thế giới và nâng cao hiệu quả đào tạo hiện nay ở Châu Âu theo tiến trình Bologna (sáng kiến cải cách giáo dục đại học của các nước Châu Âu bắt đầu vào năm 1999) thì thời gian đào tạo ĐH, thạc sĩ, tiến sĩ theo thứ tự là 3, 5, 8 năm kể từ sau khi tốt nghiệp THPT.
Các nước đang điều chỉnh dần theo khung này. Tất nhiên phải có lộ trình. Ngay cả những nước EU đến nay vẫn chưa thực hiện đúng khung đó.
Như vậy khung thời gian này là hướng mà các chương trình đào tạo sẽ hướng tới để tạo nên sự thống nhất tương đối trình độ, chương trình đào tạo chung.
Hiện nay các trường áp dụng hệ thống đào tạo tín chỉ nên có những sinh viên đã có thể tốt nghiệp đại học trong thời gian 3 năm. Vì vậy cơ cấu hệ thống của ta đề nghị GDDH từ 3-4 năm là theo tinh thần đó.
- Cảm ơn ông!
XEM THÊM
![]() |
Thiếu tướng Trương Nham |
Người chết là một Trung đoàn trưởng cao xạ của Sư đoàn 116 sắp được thăng Lữđoàn trưởng; người còn lại là Bộ trưởng vũ trang Đại Khánh (Ban CHQS cấp thị),Sư trưởng 116/QĐ39 cũng bị giáng cấp và bãi chức.
Trương Nham sinh tháng 11/1964, phong hàm Thiếu tướng tháng 7/2010, vừa được bổnhiệm Tư lệnh Quân đoàn 26 tháng 10/2014 vào trước dịp Hội nghị TW4, hiện là cánbộ cấp trưởng quân đoàn trẻ nhất quân đội Trung Quốc. Ông này trước đây liên tụccông tác ở QĐ39, từng giữ các chức Sư trưởng 116 (2007), tham mưu trưởng Quânđoàn (2009), phó TMT QK Thẩm Dương (2013).
Quân đoàn 26 (phiên hiệu là Bộ đội 71146 QGPND Trung Quốc) là đơn vị tập đoànquân loại B trực thuộc QK Tế Nam, đóng ở Duy Phường, Sơn Đông. Còn QĐ39, đơn vịcũ của Trương Nham (phiên hiệu Bộ đội 65521) thuộc QK Thẩm Dương, đóng ở LiêuDương, Liêu Ninh là tập đoàn quân cơ giới hóa trang bị hiện đại. Trương Nham vềthăm đơn vị cũ, tổ chức nhậu nhẹt mừng cấp dưới sắp lên chức nên xảy ra cơ sựkhiến sự nghiệp tan ra mây khói.
Ngô Tuyết