Kinh doanh

Kèo vàng bóng đá AS Roma vs Cagliari, 22h00 ngày 16/3: Trút giận?!

字号+ 作者:NEWS 来源:Kinh doanh 2025-03-20 13:18:51 我要评论(0)

Hư Vân - 16/03/2025 11:57 Kèo vàng bóng đá lịch van niên năm 2023lịch van niên năm 2023、、

èovàngbóngđáASRomavsCagliarihngàyTrútgiậlịch van niên năm 2023   Hư Vân - 16/03/2025 11:57  Kèo vàng bóng đá

1.本站遵循行业规范,任何转载的稿件都会明确标注作者和来源;2.本站的原创文章,请转载时务必注明文章作者和来源,不尊重原创的行为我们将追究责任;3.作者投稿可能会经我们编辑修改或补充。

相关文章
网友点评
精彩导读
- Tân giáo sư trẻ nhất năm 2017 sinh năm 1982, năm nay tròn 36 tuổi. Anh từng là phó giáo sư trẻ nhất năm 2011, khi mới 29 tuổi. 

Đó là anh Phạm Hoàng Hiệp, quê ở Hải Dương, hiện công tác tại Viện Toán học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. 

Anh Phạm Hoàng Hiệp tốt nghiệp đại học và thạc sĩ ngành Toán học tại Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Năm 2008, anh bảo vệ luận án tiến sĩ Toán học với sự hướng dẫn của giáo sư Urban Cegrell, tại ĐH Umea, Thụy Điển. Năm 2013, anh bảo vệ luận án Tiến sĩ khoa học tại Pháp.

{keywords}
Tân giáo sư trẻ nhất năm 2017 năm nay tròn 36 tuổi (ảnh: Phạm Phượng)

Trước khi về công tác tại Viên toán học, tân GS Hiệp từng công tác giảng dạy tại Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Năm 2011, anh Hiệp được phong là PGS trẻ nhất khi tròn 29 tuổi.

Anh Hiệp được xem là nhà toán học Việt Nam ở trong nước đầu tiên có bài đăng trên tạp chí Acta Mathematica - tạp chí được xếp hạng cao nhất theo chỉ số ảnh hưởng và chỉ số trích dẫn năm năm trong danh mục 302 tạp chí ngành toán lý thuyết của cơ sở dữ liệu ISI.

Tính tới nay, anh và cộng sự đã có 38 bài báo khoa học xuất bản trên các tạp chí khoa học chuyên ngành và một quyển sách chuyên khảo. Hiện nay, anh Hiệp đang tham gia như là một thành viên trong Ban biên tập của tạp chí Acta Mathematica Vietnamica.

Trong một chia sẻ trên Tạp chí Tia Sáng khi nhận giải thưởng Tạ Quang Bửu năm 2015, anh Hiệp cho biết dù đến với toán học khá muộn nhưng luôn dành tình yêu đặc biệt cho môn học này. 

Phải đến năm lớp 9, sau khi tình cờ đọc một cuốn sách về số học được bố mua cho từ rất lâu, cậu bé Hiệp mới phát hiện mình có thêm niềm đam mê với toán. Dù lỡ cơ hội thi vào lớp chuyên toán của tỉnh Hải Dương, nhưng Hiệp vẫn nuôi mơ ước được đi thi toán quốc tế. Thời gian sau đó, Hiệp say sưa tìm giải các đề thi toán trong tạp chí Toán học và Tuổi trẻ. Đôi lần, lời giải của cậu được tạp chí chọn đăng...

Tân GS trẻ nhất năm 2017 từng mơ ước vào học Khoa Toán, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, để nếu không được nghiên cứu toán thì cũng được giảng dạy toán.

Những năm theo học Lớp chất lượng cao của Khoa Toán, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời nghiên cứu của anh. Tại đây, anh Hiệp đã dành phần lớn thời gian để đọc và nghiền ngẫm các tài liệu về toán học, tạo cho mình một nền tảng vững chắc.

Môi trường này đã tạo cơ duyên cho anh Hiệp được gặp nhiều vị GS nổi tiếng, sau này là thầy của anh như GS. Nguyễn Văn Khuê, và tạo cầu nối với GS. Urban Cegrell, Thụy Điển - người giúp anh bảo vệ luận án tiến sĩ tại nước này. 

Trên Báo Công an nhân dân, tân GS trẻ nhất năm 2017 từng đưa ra quan điểm độc đáo về tuổi trẻ: "Tuổi trẻ là lúc chúng ta có sức khỏe, lòng nhiệt huyết và sự tiếp thu kiến thức nhanh nhạy nhất. Tuổi trẻ trôi qua rất nhanh, do đó mỗi người phải biết tranh thủ thời gian này để học tập kiến thức, nâng cao trí tuệ của bản thân. Tùy theo khả năng của mình, mỗi người sẽ chọn lĩnh vực, ngành nghề phù hợp. Làm giỏi một nghề nghiệp nào có ích cho xã hội cũng sẽ mang lại vinh quang và hạnh phúc cho chính mình”.

Lê Huyền

 

Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến đạt chuẩn giáo sư năm 2017

Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến đạt chuẩn giáo sư năm 2017

Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đạt chuẩn giáo sư năm 2017- theo danh sách công bố những người đạt chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư do Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước công bố.

" alt="Tân giáo sư trẻ nhất từng là phó giáo sư trẻ nhất" width="90" height="59"/>

Tân giáo sư trẻ nhất từng là phó giáo sư trẻ nhất

Từ Australia, TS Lê Minh Toàn gửi đến VietNamNet bài viết "Nâng tầm đại học Việt Nam: Liệu có là ước mơ xa vời?" nêu vấn đề từ những diễn biến thời sự của giáo dục đại học nước nhà.

Dưới đây là nội dung bài viết.

{keywords}
Ảnh có tính chất minh họa (Nguồn: Web ĐH Tiền Giang)

Phần 1. Làm giảng viên đại học, cao đẳng: Nghề nhiều áp lực

Việc Bộ GD-ĐT nâng chuẩn khi đào tạo TS, lương thấp, nhiều áp lực trong các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học (NCKH) đang tạo lên những áp lực đối với đội ngũ giảng viên ĐH, CĐ tại Việt Nam hiện nay trong bối cảnh "bội thực" việc công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư và việc không có trường ĐH của Việt Nam nào nằm trong bảng xếp hạng 350 trường ĐH tốt nhất châu Á.

Thiếu và yếu

Cuối tháng 12/2017, Bộ GD-ĐT công bố số liệu về đội ngũ giảng viên (GV) cơ hữu thiếu chuẩn của nhiều trường đại học. Trong hơn 200 trường đại học được công bố, hầu hết các trường đều tồn tại GV không đủ chuẩn trình độ (theo quy định là từ thạc sĩ trở lên, trừ một số ngành đặc thù).

Thống kê cho thấy, các năm học từ 2016 đến 2018, số lượng GV trong các cơ sở giáo dục đại học là 72.792 người, tăng 3.201 người so với năm 2015-2016. Trong đó, số lượng GV có trình độ tiến sĩ là 16.514 người (chiếm 22,7%). Tỉ lệ này còn chưa đạt mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết số 14 của Chính phủ về Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020 (mục tiêu đến năm 2020, tỉ lệ GV có trình độ tiến sĩ ít nhất đạt 35%).

 

{keywords}
 

 

Dù thiếu và yếu về chất lượng, nhưng GV ĐH, CĐ phải là những người yêu nghề và gắn bó với nghề; bởi lẽ không có đâu như ở Việt Nam khi bậc lương khởi điểm cho GV ĐH, CĐ bất kể xuất phát điểm của trình độ đào tạo. Mức lương cơ sở được cho là khá thấp, không khuyến khích và thu hút được người có tài vào làm việc tại các cơ sở giáo dục. Hệ thống thang, bảng lương hiện hành không phù họp với Luật Giáo dục ĐH và một số văn bản hướng dẫn thi hành.

Bên cạnh đó, việc áp dụng hệ thống thang, bảng lương giống nhau cho những công việc khác nhau không còn phù hợp với quy định vị trí việc làm hiện nay. Việc xếp chung một hạng viên chức (như hiện hành) sẽ khó thu hút người có tài năng, tâm huyết vào những vị trí việc làm quan trọng.

Bộ GD-ĐT đánh giá, tỷ lệ GV có chức danh GS, PGS và trình độ TS trong toàn hệ thống vẫn ở mức thấp, đặc biệt là tỷ lệ GV có trình độ TS của các trường CĐSP (chiếm khoảng 3,4%).

Chất lượng đội ngũ GV vẫn còn là dấu hỏi lớn khi nhiều người không có đề tài nghiên cứu, chưa có bài báo đăng trên tạp chí khoa học trong nước và nước ngoài, trình độ ngoại ngữ còn hạn chế... Số lượng GV cơ hữu của các trường ngoài công lập vẫn còn thiếu (15.158 người chiếm khoảng 20% tổng số giảng viên trong toàn quốc) và đã ở độ tuổi cao...

Nguyên nhân của vấn đề nêu trên là do việc nâng bậc lương chủ yếu dựa vào thâm niên công tác, chưa chú trọng kết quả công việc. Các cơ sở giáo dục không thể xếp lương cho một cá nhân có trình độ tiến sĩ quá hệ số 3,00 (tương đương khoảng 4 triệu đồng/tháng) khi tuyển dụng.

Việc nâng hạng, nâng bậc lương còn dẫn đến hiện tượng cào bằng. Các cơ sở giáo dục không thể thực hiện chế độ khuyến khích, thu hút người có tài, có trình độ cao đến làm việc nếu vẫn tiếp tục bị "áp" cơ chế tiền lương, thang bảng lương hiện hành.

Bộ GD-ĐT đã kiến nghị Chính phủ xây dựng hệ thống thang, bảng lương riêng được xác định theo các vị trí việc làm, trả lương trên cơ sở mức độ phức tạp và chất lượng hiệu quả của công việc. Theo đó, lương nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang, bậc lương hành chính sự nghiệp. Tuy nhiên, tăng lương là một chuyện, còn tìm ra nguồn để tăng không lại là chuyện khác nhất là trong bối cảnh ngân sách như hiện nay.

Nhiều áp lực

Lương thấp, nhưng áp lực của yêu cầu về giảng dạy và NCKH cũng đang đè nặng. Thông tư số 47 quy định chế độ làm việc như sau: "Tổng quỹ thời gian làm việc của giảng viên trong một năm học để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, học tập bồi dưỡng và các nhiệm vụ khác trong nhà trường là 1760 giờ sau khi trừ số ngày nghỉ theo quy định".

Căn cứ quy định cụ thể về việc thực hiện chế độ tuần làm việc 40 giờ để quy ra tổng quỹ thời gian làm việc của GV trong một năm học là 1.760 giờ (giờ hành chính). Trong một năm học, mỗi giảng viên đều phải thực hiện nhiệm vụ: giảng dạy (270 giờ chuẩn, trong đó, giờ chuẩn trực tiếp trên lớp chiếm tối thiểu 50% định mức quy định), NCKH (ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm học), học tập bồi dưỡng và các nhiệm vụ khác trong nhà trường với tổng quỹ thời gian làm việc trong một năm học là 1.760 giờ.

Thực tế tại các trường, tình trạng GV ở mọi cấp độ và trình độ phải dạy ghép lớp (2-3 lớp với sĩ số từ 150-300 sinh viên) cho các môn học của mình là phổ biến (nhất là các môn học cơ bản thuộc học kỳ 1-2 năm học thứ 1-2).

{keywords}
Quy đổi ra giờ chuẩn (Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT ngày 31/12/2014)

Áp lực bủa vây các thầy cô lên lớp ngay những buổi học đầu tiên với xoay vòng: điểm danh, giảng dạy, thảo luận, kiểm tra giữa kỳ, ôn tập, ra đề thi, coi thi, chấm thi hết môn, ra đề thi lại, chấm thi lại, giải quyết các thắc mắc và khiếu nại của sinh viên.

Nhiều trường, học viện còn "sáng tạo" ra những cách thức quản lý GV của mình bằng việc chia nhỏ các kíp giảng ra thành 2-3 tiết giảng/buổi học khiến cho các môn học kéo dài thành từ 10-15 buổi/môn học/học kỳ (kéo dài khoảng 3 tháng). Thêm vào đó, GV thường phải "gánh" khối lượng giảng dạy gấp từ 1,5 - 2 lần, thậm chí 3 lần định mức quy định.

Về thu nhập thêm, bổ sung tại nhiều trường số tiền trả cho mỗi giờ vượt này cũng chỉ dao động từ 30.000 - 60.000 VNĐ/giờ tùy theo trình độ và hệ đào tạo. Như vậy, GV trình độ Ths, Ts giảng dạy vượt 200% định mức giảng dạy chuẩn theo quy định thì cũng chỉ tạo ra thu nhập thêm dao động từ 8,1 triệu đến 16,2 triệu đồng/năm học (tương đương với 675.000 đồng/tháng đến 1,35 triệu đồng/tháng thu nhập thêm). Để có thêm số tiền giảng vượt giờ này, GV sẽ phải vắt kiệt sức trong suốt cả học kỳ và năm học của mình; không còn sức đâu mà "chân trong, chân ngoài" đi dạy thêm.

Về hoạt động NCKH, nhiều nơi đã sáng tạo ra cách tính toán định mức giờ chuẩn và giờ NCKH bằng cách quy đổi định mức quy định tại Khoản 2 Điều 4 của Thông tư số 47 theo công thức: 1 giờ chuẩn tương đương 1 giờ hành chính.

Chính cách hiểu sai này đã gây nhiều thắc mắc cho các GV, đến độ Bộ GD-ĐT phải giải đáp lại vấn đề này trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ rằng: Nghiên cứu để tính ra định mức giờ chuẩn cho thấy: 3,3 giờ hành chính ≈ 1 giờ chuẩn.

Theo đó, 270 giờ chuẩn ≈ 900 giờ làm việc hành chính (nhiệm vụ giảng dạy chiếm khoảng 50% tổng quỹ thời gian làm việc); quỹ thời gian làm việc trong năm học để làm nhiệm vụ NCKH ≈ 586 giờ hành chính (1/3 tổng quỹ thời gian làm việc trong năm học) và kết quả thực hiện nhiệm vụ NCKH được công bố bằng sản phẩm cụ thể theo quy định.

Như vậy, không thể coi 1 giờ chuẩn tương đương 1 giờ hành chính. Nhiệm vụ giảng dạy và NCKH là 2 nhiệm vụ chính và bắt buộc đối với mỗi GV; mỗi GV đều phải thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ nói trên. Do đó, Thông tư 47 không có hướng dẫn quy đổi từ NCKH ra giờ chuẩn và ngược lại. Trong năm học, GV hoàn thành định mức quy định 270 giờ chuẩn, đồng thời đã hoàn thành các nhiệm vụ về NCKH học tập bồi dưỡng và các nhiệm vụ khác trong nhà trường được coi đã hoàn thành định mức thời gian làm việc trong một năm học là 1.760 giờ (tương đương với việc thực hiện chế độ tuần làm việc 40 giờ).

Tuy nhiên, chính quy định tính toán kiểu "cào bằng" yêu cầu về giờ NCKH (về mặt bản chất là nhằm nâng cao chất lượng giảng viên, hoạt động giảng dạy, nâng hạng trường…) đối với GV lại tạo điều kiện cho các trường tiếp tục "sáng tạo" ra cách thức nhằm bớt xén số giờ giảng dạy vượt giờ của GV bằng việc tính toán chuyển đổi giờ NCKH còn thiếu (nhất là các GV giảng dạy các môn khoc học cơ bản rất khó thực hiện định mức giờ chuẩn NCKH theo năm) trừ vào số giờ giảng dạy vượt giờ.

Như vậy, GV ngoài áp lực phải dạy đủ số giờ quy định còn phải dạy vượt khối lượng giảng dạy (do thiếu GV và trường cũng không muốn tuyển thêm do chỉ tiêu hạn chế hoặc đơn giản là không muốn tuyển thêm vì sợ "ăn" vào quỹ lương và phúc lợi) để còn trừ vào số giờ NCKH thiếu (do không có thời gian thực hiện hoặc không thể thực hiện được do tính chất của môn học).

Ngoài ra, quy định bắt buộc các GV phải đáp ứng chuẩn ngoại ngữ (ví dụ tiếng Anh) theo khung tham chiếu Châu Âu cũng vô hình trung tạo ra tâm lý đối phó bằng việc học và thi bên ngoài, bất kể chất lượng thực tế ra sao.

Việc tính toán định mức NCKH thông qua việc phải có các bài báo khoa học đăng tải trên các tạp chí có phản biện (trong và ngoài nước) hoặc không có phản biện làm tiêu chí đánh giá năng lực GV cũng đặt ra nhiều áp lực lên GV hiện nay.

Với số lượng GV đông đảo trong khi số lượng tạp chí thì ít, khiến cho các tạp chí này đã quá tải do phải nhận một lượng bài gửi rất lớn từ các GV gửi đến (bao gồm cả những bài của các GV có nhu cầu được phong học hàm PGS, GS, các NCS chuẩn bị bảo vệ, các Ths chuẩn bị thi NCS). Một số tạp chí cũng "tranh thủ" bằng việc tăng số trang, tăng chuyên mục (ví dụ: Nghiên cứu khoa học; Nghiên cứu- Trao đổi) và tiến hành thu phí đăng bài (mức 2-3 triệu/bài viết) với lý do hỗ trợ in ấn, biên tập.

Nhiều trường, học viện đối phó việc hoàn thành NCKH của GV trường mình bằng việc xuất bản các chuyên san, tập san, tạp chí nội bộ. Hệ quả nhãn tiền là chất lượng NCKH không tăng lên, tâm lý đối phó là chính.

Với những phân tích ở trên, có thể thấy rằng các GV cứ quanh quẩn mãi trong cái vòng luẩn quẩn của việc: giảng dạy, không có thời gian dành cho NCKH, bị khấu trừ, lấy giờ dạy vượt giờ bù lại, lại mệt mài giảng, học tập tiếp để nâng cao trình độ, thi lấy chứng chỉ ngoại ngữ....

Hậu quả nhãn tiền là sức khỏe GV suy giảm, tình trạng chảy máu chất xám với sự dứt áo ra đi của đội ngũ GV có tâm huyết và trình độ (di chuyển đến trường coi trọng GV hoặc ra làm ngoài), hoạt động NCKH và chất lượng giảng dạy của các trường không được nâng lên và đương nhiên, xếp hạng Châu Á hay thế giới đang trở lên là ước mơ xa vời vợi của mỗi trường ĐH, CĐ ở Việt Nam hiện nay.

XEM TIẾP

TS Lê Minh Toàn

Chuyển làm phục vụ, cho nghỉ việc giảng viên không có bằng thạc sĩ

Chuyển làm phục vụ, cho nghỉ việc giảng viên không có bằng thạc sĩ

Ngoài chính sách trải thảm đỏ, trả lương cao, nhiều trường đại học đang tích cực tạo điều kiện cho giảng viên đi học lấy bằng thạc sĩ, tiến sĩ.

" alt="Làm giảng viên đại học, cao đẳng: Nghề nhiều áp lực" width="90" height="59"/>

Làm giảng viên đại học, cao đẳng: Nghề nhiều áp lực

Cử nhân Sài Gòn đạp xe đeo biển tìm việc